Thứ sáu, 19-4-2024 - 1:1 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Tổng hợp, phân tích hiệp định CPTPP trong tháng 12/2019 

 Thứ ba, 31-12-2019

AsemconnectVietnam - Trong tháng 12/2019, tin tức phân tích hiệp định toàn diện và tiến bộ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) khá sôi động.

Tổng hợp, phân tích hiệp định CPTPP trong tháng 12/2019
Trong tháng 12/2019, tin tức phân tích hiệp định toàn diện và tiến bộ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) khá sôi động.
Bức tranh thương mại sau một năm CPTPP có hiệu lực 
Gần một năm sau khi có hiệu lực, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã mang lại một số lợi ích hỗn hợp cho 11 nước tham gia ký kết. Dòng chảy thương mại đã bùng nổ giữa một số quốc gia trong khi vẫn ổn định ở các quốc gia khác.
Tuy nhiên, những thay đổi này ở mức độ nào là do CPTPP, dù rất khó đo lường vì các hiệp định thương mại và các xung đột thương mại khác cũng ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại ở châu Á - Thái Bình Dương. Mặc dù vậy, CPTPP vẫn là một hiệp định thương mại quan trọng còn biên độ để mở rộng. CPTPP là một hiệp định thương mại tự do giữa 11 quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Australia, Brunei Darussalam, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Được ký vào ngày 8/3/2018 và có hiệu lực vào ngày 30/12/2018, sau khi đa số các bên ký kết phê chuẩn hiệp định. Hiệp định này ràng buộc các thành viên, đại diện cho khoảng 13,5% thương mại hàng hóa toàn cầu, với 30 chương giúp cho việc tiếp cận đầu tư và thương mại tự do hơn.
Mặc dù văn bản của hiệp định vẫn tương tự như văn bản của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhưng CPTPP đã tạm thời bỏ ngỏ hoặc thay đổi 22 điều khoản ban đầu. Nhiều trong số những thay đổi này là nhỏ, nhưng một vài thay đổi đáng kể so với TPP. Trong số 30 chương của hiệp định, có một số chương nổi bật như: Về thương mại điện tử, CPTPP phần lớn cấm nội địa hóa dữ liệu và cấm thuế hải quan đối với truyền điện tử. Nó tạo điều kiện cho các chuỗi cung ứng khu vực hóa và tự do hóa thương mại dịch vụ vượt ra ngoài các cam kết của WTO. Hiệp định cũng kêu gọi áp dụng trong nước các luật lao động theo thỏa thuận quốc tế và các cam kết môi trường.
Những lợi ích cụ thể của hiệp định được thể hiện khác nhau giữa các quốc gia. Đối với Canada, tiếp cận thị trường hàng hóa đã được mở rộng rõ rệt. Thịt lợn, thịt bò, lúa mì, cá, gỗ, và nhiều mặt hàng công nghiệp của Canada thu được lợi nhuận đáng kể với các nhà nhập khẩu từ Nhật Bản, Việt Nam và Malaysia. Australia cũng đã được hưởng lợi từ việc giảm thuế thịt bò Nhật Bản, cũng như tiếp cận thị trường đối với các sản phẩm sữa vào Nhật Bản và Canada và cải cách khai khoáng ở Mexico.
Khối lượng thương mại giữa các quốc gia thành viên CPTPP đã thay đổi trong năm ngoái, ngay cả trong số ba nền kinh tế lớn nhất là Australia, Canada và Nhật Bản. Một mặt, Australia đã chứng kiến ​​sự bùng nổ thương mại với các đối tác CPTPP. Năm 2018, thương mại của nước này tăng 19,1% với Nhật Bản, 16,5% với Malaysia và 13,3% với Việt Nam, tất cả đều vượt quá mức tăng thương mại hàng năm là 11,6%. Xuất khẩu hàng hóa của nước này tăng vọt, tăng 25,2% với Nhật Bản và 25,6% với Malaysia, so với 14,4% nói chung. Mặt khác, đối với Canada, xuất khẩu đã trải qua sự tăng trưởng được đo lường nhiều hơn. Ottawa đã chứng kiến ​​mức tăng trưởng xuất khẩu khiêm tốn khoảng 1% với tất cả các đối tác CPTPP, tương tự như mức tăng khối lượng xuất khẩu nói chung.
Nhật Bản chứng kiến ​​thâm hụt thương mại mở rộng với Australia, Việt Nam và Canada so với cùng kỳ năm ngoái. Mức giảm chung của nước này trong xuất khẩu là 4,7%, bị giảm do doanh số bán hàng sang Australia, giảm 17,9% và sang Canada, giảm 10,4%. Mặt khác, nhập khẩu của Nhật Bản từ hai đối tác thương mại CPTPP hàng đầu của họ là Australia và Việt Nam đã tăng lần lượt 5,1% và 7,0% so với nửa đầu năm 2018. Mức tăng này đặc biệt đáng chú ý khi so với mức giảm nhập khẩu chung của Nhật Bản là 1,1%. Rõ ràng, gần một năm sau khi CPTPP có hiệu lực, các nền kinh tế CPTPP đã nhìn thấy kết quả hỗn hợp trong ngắn hạn.
Mặc dù CPTPP có khả năng ảnh hưởng đến mối quan hệ thương mại dài hạn giữa 11 quốc gia thành viên, nhưng rất khó để nói chính xác mức độ ảnh hưởng của nó đối với các mô hình thương mại năm ngoái. Xu hướng kinh tế vĩ mô rộng lớn hơn và quả bóng kinh tế của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đã góp phần vào những thay đổi gần đây.
Một mô hình phân tích của Ngân hàng Phát triển châu Á từ tháng 12/2018 cho thấy, mức thuế trả đũa của Bắc Kinh và Washington có tác động lan tỏa đến các đối tác thương mại lớn của cả hai quốc gia, bao gồm cả Nhật Bản. Các thỏa thuận song phương giữa các nền kinh tế CPTPP và ngoài CPTPP cũng ảnh hưởng đến khối lượng thương mại. Ví dụ, hiệp định đối tác kinh tế EU - Nhật Bản, có hiệu lực vào tháng 2/2019, đã mang lại những thay đổi đáng kể cho mối quan hệ thương mại EU-Nhật Bản. Nó đã loại bỏ thuế đối với hàng hóa nông nghiệp và thủy sản của Nhật Bản và bắt đầu giai đoạn loại bỏ thuế ô tô của Nhật Bản. Đối với hàng hóa châu Âu, thuế quan đối với các sản phẩm hóa học, đồ da và một số sản phẩm nông nghiệp như thịt lợn cũng được tự do hóa tương tự. Tháng 10, thỏa thuận thương mại Mỹ-Nhật cũng có thể tác động đến các nền kinh tế CPTPP, đặc biệt là các nhà xuất khẩu nông nghiệp như Australia, New Zealand và Canada. Do tính chất phụ thuộc lẫn nhau của nền kinh tế toàn cầu, việc xác định bất kỳ nguyên nhân nào của sự dịch chuyển thương mại là gần như không thể, đặc biệt là chỉ một năm sau khi việc thực thi CPTPP bắt đầu. CPTPP vẫn có tiềm năng tăng thu nhập toàn cầu thêm 147 tỷ đôla hàng năm, nhưng có thể mất một thời gian để có kết quả.
Trong tương lai, CPTPP có nhiều cơ hội phát triển, cả trong số các bên ký kết và giữa các quốc gia quan tâm khác. Brunei, Chile, Malaysia và Peru đều đã ký CPTPP vào tháng 3/2018 nhưng chưa phê chuẩn hiệp định. Trong số bốn nước này, Chile đã gần hoàn tất thủ tục nội bộ khi Hạ viện đã chấp thuận hiệp định vào tháng 4 nhưng Thượng viện vẫn chưa phê chuẩn, mặc dù dự kiến ​​hiệp định sẽ được thông qua mà không gặp phải sự phản kháng nào. Brunei đã im lặng về cơ hội thực thi hiệp định trước năm 2020 và các quan chức Malaysia chưa đưa ra các thông tin tích cực hơn về việc phê chuẩn. Quá trình phê chuẩn ở Peru cũng có vẻ bị đình trệ sau khi tuyên bố vào tháng 3/2019.
Trong khi đó, một số nền kinh tế chờ đợi để tham gia khối CPTPP, phải kể đến Đài Loan đã nhiều lần lên tiếng về việc tham gia hiệp định, cũng như Thái Lan và Indonesia. Đồng thời, Hàn Quốc đang xem xét nộp đơn, nhưng đã dừng cuộc thảo luận vào tháng 7 giữa lúc có tranh chấp thương mại với Nhật Bản. Chính quyền Tổng thống Trump chưa có kế hoạch quay lại TPP ban đầu. Tuy nhiên, việc theo đuổi các hiệp định thương mại của Mỹ như Hiệp định Mỹ - Mexico - Canada và Hiệp định Thương mại Mỹ - Nhật có thể đặt nền móng cho việc tiếp nhận TPP dưới một hình thức khác.
Tại sao CPTPP có thể là lời giải cho cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung
Trung Quốc tham gia CPTPP có thể giảm bớt căng thẳng với Mỹ, thúc đẩy tăng trưởng, đa dạng hóa thị trường và hiện đại hóa đất nước. Tại sao nước này không làm điều đó?
Alexander Graham Bell từng nói rằng khi một cánh cửa đóng lại, một cánh cửa khác sẽ mở ra. Vì vậy, năm 2018 đã chứng kiến ​​sự khởi đầu của một cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc nhưng cũng đã khai sinh hiệp định toàn diện và tiến bộ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một hiệp định thương mại tiên tiến gồm 11 thành viên cho thế kỷ 21, có hiệu lực vào ngày 30 tháng 12 năm 2018.
Một quyết định táo bạo của Trung Quốc khi tham gia CPTPP có thể giải quyết nhiều thách thức mà cuộc chiến thương mại tiếp tục tạo ra. Bằng cách áp dụng các quy tắc thương mại CPTPP, Trung Quốc có thể giảm bớt căng thẳng với Mỹ và các nước khác; bằng cách tham gia một mạng lưới thương mại khu vực năng động, Trung Quốc có thể tăng tốc tăng trưởng kinh tế và đa dạng hóa thị trường; bằng cách cam kết với các tiêu chuẩn chính sách quốc tế cao, Trung Quốc có thể thúc đẩy các cải cách của chính mình trong việc xây dựng một nền kinh tế mở, hiện đại.
Bên cạnh đó, CPTPP sẽ tạo động lực cho chính sách mở cửa của Trung Quốc, điều rất quan trọng đối với sự tăng trưởng của Trung Quốc. Trung Quốc đã có quan hệ thương mại và đầu tư mạnh mẽ với các thành viên CPTPP khác, tuy nhiên thỏa thuận này có thể giúp hạ thấp một số các rào cản thương mại cao. Hoạt động thương mại sẽ gia tăng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, làm cho chuỗi cung ứng sản xuất trở nên hiệu quả hơn và đa dạng hóa thị trường, tránh sự phụ thuộc quá mức vào khu vực Bắc Mỹ.
Một nghiên cứu của Viện kinh tế quốc tế Peterson cho thấy CPTPP sẽ bổ sung thêm 147 tỷ đô la Mỹ hàng năm vào thu nhập toàn cầu. Đây là một khoản tiền lớn, nhưng có thể tăng lên tới 632 tỷ USD mỗi năm nếu Trung Quốc tham gia, vượt qua những lợi ích mà TPP trước đó sẽ tạo ra với sự tham gia của Mỹ. Xuất khẩu của Trung Quốc sang khu vực sẽ tăng trưởng đặc biệt nhanh về các mặt hàng điện tử, máy móc và nhập khẩu của Trung Quốc sẽ tăng ở các dòng sản phẩm mới là linh kiện điện tử và nông sản.
Ngoài việc giảm các rào cản thông thường đối với thương mại, như thuế quan và hạn ngạch, CPTPP cung cấp một bộ quy tắc rộng rãi và đầy tham vọng cho các mối quan hệ kinh tế hiện đại. Bằng cách áp dụng quy tắc này, Trung Quốc sẽ có cơ hội cam kết điều chỉnh các chính sách của mình - bao gồm cả những chính sách bị Mỹ chỉ trích – phù hợp với các quy tắc toàn cầu.
Ví dụ, các quy tắc CPTPP sẽ yêu cầu Trung Quốc minh bạch hơn các công ty nhà nước và tự đặt ra các mục tiêu kinh doanh. Bí mật thương mại và bằng sáng chế sẽ được bảo vệ tốt hơn, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chịu ít hạn chế hơn và các công ty sẽ tự do hơn khi tham gia vào thương mại điện tử và chuyển dữ liệu xuyên biên giới.
Không việc gì trong số này sẽ có thể làm dễ dàng mà đòi hỏi những cải cách lớn của Trung Quốc. Canada, Nhật Bản, Việt Nam và các quốc gia khác đã sử dụng các quy tắc CPTPP để thúc đẩy các cải cách khó khăn và chính Trung Quốc đã hưởng lợi rất nhiều từ cải cách kinh tế khi gia nhập WTO. CPTPP sẽ làm cho các cải cách đáng tin cậy hơn ở trong và ngoài nước vì hiệp định này bao gồm các điều khoản thực thi có ý nghĩa.
Các quy tắc CPTPP, nếu được thực thi đúng cách, cũng có khả năng có tác động tích cực đối với Mỹ vì các phần chính của thỏa thuận đã được đưa vào hiệp định thương mại tự do Mỹ - Mexico - Canada mới. Ngay cả khi Mỹ vẫn ở ngoài CPTPP, trong các cuộc đàm phán song phương, Trung Quốc có thể cam kết để đưa ra các quy tắc tương tự áp dụng cho thương mại và đầu tư của Mỹ.
CPTPP sẽ giúp giảm căng thẳng thương mại và tăng cường ngoại giao kinh tế với Trung Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc sẽ hợp tác với các nước châu Á và Mỹ Latinh để xây dựng một hệ thống khu vực mở. Một số đối tác CPTPP này có thể lo ngại về sự cạnh tranh từ Trung Quốc nhưng hầu hết sẽ chào đón các thị trường rộng lớn này.
Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đông Nam Á cũng sẽ được hưởng lợi. Hợp tác sâu rộng hơn trong khu vực sẽ thúc đẩy ảnh hưởng chính trị của Đông Á. Từ góc độ toàn cầu, Trung Quốc và khu vực sẽ cung cấp hỗ trợ thiết yếu cho một hệ thống thương mại dựa trên quy tắc tại thời điểm Mỹ dường như đang rời bỏ nó.
Tuy vậy, ngay cả khi Trung Quốc cam kết tham gia CPTPP, việc gia nhập của họ có thể không diễn ra suôn sẻ hoặc nhanh chóng. Tư cách thành viên Trung Quốc có thể bị các thành viên CPTPP khác trì hoãn do những lo ngại về sự cạnh tranh từ Trung Quốc và có thể cả Mỹ. Ngay cả khi thỏa thuận không xảy ra ngay lập tức, việc Trung Quốc tập trung vào các quy tắc CPTPP sẽ gửi tín hiệu mạnh mẽ đến thế giới về cam kết của mình đối với các chuẩn mực quốc tế trong một loạt các chính sách.
Cuối cùng, tư cách thành viên Trung Quốc trong CPTPP sẽ không khiến căng thẳng mất đi. Mặc dù có nhiều thập kỷ hợp tác về mọi lĩnh vực, từ quốc phòng đến các tổ chức quốc tế, Mỹ, EU và Nhật Bản thường xuyên có những cuộc tranh chấp thương mại nghiêm trọng. Khi Trung Quốc phát triển, xung đột thương mại như vậy cũng sẽ tiếp tục và gia tăng theo thời gian. Tuy vậy, việc tham gia CPTPP sẽ giảm thiểu rủi ro xung đột thương mại, có thể dẫn tới chiến tranh thương mại, vốn luôn mang tính hủy diệt.
Báo cáo về CPTPP cho thấy thương mại của Canada với những nước khác vẫn bị ảnh hưởng bởi Trung Quốc, Mỹ
Hiệp định toàn diện và tiến bộ đối tác xuyên Thái Bình Dương - CPTPP - đã được nhiều người coi là một tia hy vọng trong một bức tranh thương mại toàn cầu u ám của Canada do đối mặt với những thách thức từ xung đột thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Tuy vậy, trong một báo cáo về CPTPP gần đây - mặc dù nhắc lại quan điểm rằng các công ty Canada cần tăng gấp đôi nỗ lực mở rộng thị trường CPTPP trong những năm tới - cũng cho thấy khu vực thương mại tự do đầy tham vọng này không thể tránh khỏi suy thoái do môi trường thương mại toàn cầu xấu đi vì xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Một báo cáo về CPTPP của Quỹ châu Á Thái Bình Dương Canada cho thấy kể từ khi thỏa thuận có hiệu lực vào ngày 30 tháng 12 năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của Canada sang 10 quốc gia khác trong khu vực thương mại thực sự đã giảm 3% trong lần đầu tiên (so với cùng kỳ năm trước), đạt 19 tỷ đô la Mỹ. Các nhà nghiên cứu cho biết kết quả nghiên cứu được phân tích trong bối cảnh cuộc chiến thương mại không hồi kết giữa Trung Quốc và Mỹ với sự giảm tốc thương mại tại các thị trường CPTPP như Nhật Bản và Mexico, sự suy giảm tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc và chính sách bảo hộ của Mỹ. Điều này có nghĩa là sự tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc sẽ không tạo ra sự bứt phá về xuất khẩu đối với phần còn lại của châu Á Thái Bình Dương và thị trường Mỹ khó có thể thay thế nhu cầu đã suy giảm của Trung Quốc.
Ông Grace Jaramillo, Giám đốc chương trình Foundation Business Asia, một nhà nghiên cứu tham gia viết báo cáo này cho biết, báo cáo cho thấy thực tế là các nước CPTPP bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc. Điều đó đang khiến các nền kinh tế trên khắp châu Á Thái Bình Dương trở nên trì trệ, nhu cầu thị trường chậm lại và đó là lý do tại sao hiệu suất của các doanh nghiệp mới ở Canada không cao.
Báo cáo CPTPP năm 2019 cũng cho thấy - mặc dù thỏa thuận là một khối 11 quốc gia kết nối Canada với các khu vực Đông Á, Đông Nam Á, châu Đại Dương và châu Mỹ Latinh - nhưng 82% kim ngạch xuất khẩu của Canada trong khối thương mại này là với ba quốc gia: Nhật Bản, Mexico và Úc. Trong số đó, Canada có mối quan hệ thương mại tự do với Mexico từ hiệp định NAFTA trong vài thập kỷ qua còn Úc có nhiều điểm tương đồng với thị trường Canada do cả hai đều là thành viên Khối thịnh vượng chung. Nhật Bản đã là một trong ba đối tác thương mại hàng đầu của Canada trong nhiều thập kỷ.
Tuy nhiên, CPTPP mang lại một số lạc quan về đa dạng hóa thị trường. Báo cáo cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Canada đang tăng nhanh hơn ở các thị trường CPTPP khác như Malaysia, Việt Nam và New Zealand, có nghĩa là tỉ lệ thương mại của Canada trong khối có thể thay đổi trong những năm tới nếu xu hướng tăng trưởng vẫn được duy trì.
Mặc dù kết quả thương mại của Canada trong năm đầu tiên khi thành viên CPTPP không được tối ưu nhưng cũng làm nổi bật cơ hội cho hàng hóa Canada tại các thị trường này. Ví dụ, xuất khẩu của Canada vẫn nghiêng nhiều về sản phẩm thô thay vì hàng hóa giá trị gia tăng đưa Canada vào sâu hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu, xuất khẩu máy móc sang phần còn lại của CPTPP đã tăng 10% trong ba quý đầu năm 2019, tương đương 213 triệu đô la Mỹ, đạt 2 tỷ đô la Mỹ. Một số sản phẩm chính bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự suy giảm của ngành giá trị gia tăng ở các thị trường khác (số liệu cho thấy xuất khẩu kim loại cơ bản của Canada sang Nhật Bản đã bị cắt giảm một nửa trong năm nay vì sự suy thoái ô tô của thị trường này).
Các doanh nghiệp Mỹ kêu gọi Thái Lan tham gia CPTPP
Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Asean đang kêu gọi chính phủ Thái Lan tham gia hiệp định toàn diện và tiến bộ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), kế thừa hiệp định TPP mà Tổng thống Donald Trump đã tuyên bố rút khỏi năm 2017.
Bộ trưởng Thương mại Thái Lan Jurin Laksanawisit cho biết các doanh nghiệp Mỹ cũng kêu gọi chính phủ kết thúc các cuộc đàm phán hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực RCEP – đang bị chậm hơn bốn năm so với kế hoạch và cho rằng Thái Lan tham gia CPTPP sẽ giúp ích rất nhiều cho các nhà đầu tư Mỹ ở Thái Lan.
"Các nhà đầu tư Mỹ muốn biết về các chính sách của chính phủ cho một nền kinh tế hiện đại và kỹ thuật số, thương mại điện tử và xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, các nhà đầu tư Mỹ sử dụng nhiều vật liệu nông nghiệp như cao su từ Thái Lan. Chính phủ Thái Lan sẵn sàng hỗ trợ đầu tư vào một nền kinh tế hiện đại có trách nhiệm xã hội cao và đã cam kết hỗ trợ chương trình hợp đồng canh tác để giúp ổn định thu nhập của nông dân.
Ông Alexander Feldman, Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Asean cho biết các doanh nghiệp Mỹ tự tin vào triển vọng tăng trưởng kinh tế Thái Lan và muốn nghe chính sách của chính phủ.
Đại diện của các công ty Airbnb, Apple, Amazon, Chevron, MSD, Dow, ExxonMobil, Harley-Davidson, FedEx và Ford cũng tham gia phái đoàn Mỹ.
"Nếu có triển vọng tốt, các khoản đầu tư mới đến Thái Lan chắc chắn sẽ có tổng số hàng trăm triệu đô la Mỹ", ông Feldman nói.
Các nhà đầu tư Mỹ cũng ủng hộ chương trình Thái Lan 4.0 và chiến lược kinh tế kỹ thuật số của Thái Lan, đồng thời rất muốn đầu tư vào công nghệ 5G.
Siriporn Chaiyasuta, Phó Chủ tịch chiến lược châu Á-Thái Bình Dương tại Công ty thăm dò và sản xuất châu Á-Thái Bình Dương, cho biết đây là phái đoàn lớn nhất của Mỹ đến thăm Thái Lan kể từ khi Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Asean được thành lập 35 năm trước với 108 đại biểu từ 46 công ty tham gia. Cuộc bầu cử dân chủ gần đây của Thái Lan và tư cách Chủ tịch Asean năm nay tạo ra môi trường và các nguyên tắc cơ bản thuận lợi, giúp Thái Lan hấp dẫn trước các khoản đầu tư mới.
"Các nhà đầu tư Mỹ đang điều chỉnh kế hoạch để liên kết họ với chính phủ", bà Siriporn nói. "Chevron cũng đang có một chương trình đầu tư xã hội trong Hành lang kinh tế phía Đông EEC và sẽ hỗ trợ nâng cao kỹ năng lao động tại sáu trường dạy nghề trong khu vực EEC".
Ông Pimchanok Vonkorpon, Tổng Giám đốc Văn phòng Chiến lược và Chính sách thương mại, cho biết quyết định gần đây của Mỹ về việc trì hoãn tăng thuế quan đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc là một dấu hiệu tốt và bà hy vọng Mỹ và Trung Quốc sẽ sớm nối lại đàm phán thương mại. "Thái Lan vẫn có cơ hội tốt để tăng cường xuất khẩu sản phẩm để thay thế cho hàng hóa Trung Quốc, đặc biệt là thực phẩm chế biến, thực phẩm, hàng may mặc và đồ gia dụng".
Sự phức tạp của việc Anh tham gia CPTPP hậu Brexit 
Nước Anh, dưới thời cả cựu Thủ tướng Theresa May và Thủ tướng đương nhiệm Boris Johnson, đã nhiều lần bày tỏ sự quan tâm đến việc có khả năng tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (TPP11 hoặc CPTPP) sau khi rời Liên minh châu Âu. Nhật Bản và một số thành viên CPTPP khác như Australia và New Zealand, được cho là ủng hộ sự kiện này. Tuy nhiên, việc xem xét sự tham gia của Anh trong CPTPP là khá phức tạp.
Đầu tiên và quan trọng nhất, liệu Vương quốc Anh có ở vị thế đươc tham gia CPTPP hay không vẫn chưa rõ ràng, phụ thuộc vào các điều khoản của mối quan hệ Anh - EU một khi Brexit thực sự diễn ra. Việc đảm bảo một chính sách thương mại độc lập luôn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất được nêu ra của Chính phủ Anh trong suốt quá trình đàm phán Brexit.
Tuy nhiên, điều này mâu thuẫn với việc duy trì mối quan hệ kinh tế gần gũi nhất có thể với EU. Nếu Vương quốc Anh rời EU nhưng vẫn ở trong liên minh hải quan của EU hoặc thiết lập một thỏa thuận hải quan tương tự dưới một tên khác, khả năng London ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các quốc gia khác sẽ bị hạn chế nghiêm trọng, khiến ý tưởng tham gia CPTPP là không thể. Đặt các tranh luận về chủ quyền sang một bên, tất cả các ước tính kinh tế có sẵn cho thấy, lợi ích kinh tế của Vương quốc Anh là duy trì mối quan hệ chặt chẽ với EU, tốt nhất là bao gồm cả liên minh hải quan.
Nhận thức đầy đủ về vấn đề nan giải này, Chính phủ Anh luôn sử dụng các phương án loại trừ tiềm năng, khi nói về vị trí của mình trong tham gia CPTPP. Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, điều này đặt ra một câu hỏi quan trọng là nước Anh nào thích hợp hơn: một nước Anh tiến hành chính sách thương mại độc lập tách biệt với EU hay một nước Anh gắn chặt với thị trường EU? Nhưng về điều này, không có sự đồng thuận giữa các quốc gia của CPTPP.
Đầu tiên, mặc dù việc Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Nội các Nhật thường bày tỏ sự ủng hộ cho ý tưởng về việc Anh tham gia CPTPP, việc xem xét Tokyo trở nên phức tạp hơn, bởi vì bảo vệ lợi ích của các công ty Nhật Bản hoạt động ở Anh luôn được ưu tiên hàng đầu. Nói một cách đơn giản, Tokyo muốn thấy một Brexit mềm mại - tức là có mối quan hệ gần gũi nhất có thể có giữa Vương quốc Anh và EU, nhưng ngược lại, điều này khiến Vương quốc Anh khó gia nhập CPTPP. Do đó, sự ủng hộ của Tokyo dành cho việc Vương quốc Anh tham gia CPTPP có thể được hiểu là một chính sách bảo hiểm trong trường hợp Brexit cứng xảy ra, không phải là kết quả mong muốn nhất. Trong khi bất cứ điều gì vẫn có thể xảy ra với tình trạng chính trị và đàm phán về mối quan hệ tương lai giữa EU và Anh vẫn chưa bắt đầu, ngay cả khi chính phủ của Thủ tướng Anh Boris Johnson vừa thắng cử, có khả năng Anh sẽ rời khỏi Liên minh hải quan EU sau thời kỳ chuyển đổi.
Ngoài những cân nhắc về lợi ích thương mại của Nhật Bản tại Vương quốc Anh, khi một quốc gia đi đầu trong việc hình thành CPTPP, có thể thấy quốc gia này mong muốn mở rộng tầm ảnh hưởng sang các quốc gia khác bao gồm cả Vương quốc Anh như một chiến thắng ngoại giao khác, mà nhiều người ở Nhật Bản sẽ ủng hộ (không nhất thiết phải biết về sự đánh đổi liên quan đến tương lai của mối quan hệ Anh-EU).
Thứ hai, Australia là ví dụ điển hình của một quốc gia muốn thấy một sự “chia tay” rõ ràng giữa Vương quốc Anh và EU, dự đoán cơ hội tiếp tục mở cửa thị trường Anh cho các sản phẩm nông nghiệp. Vì sự cân nhắc này, một số lời chỉ trích đã xuất hiện tại Australia sau thỏa thuận Brexit cũ vì sợ rằng Anh có thể vẫn ở trong liên minh hải quan EU và do đó không thể tham gia CPTPP. Các quốc gia trên thế giới đang chuẩn bị tận dụng lợi thế đàm phán của Anh. Điều này cũng giải thích tại sao Tokyo không đồng ý ký kết thỏa thuận tiếp tục thương mại, một khuôn khổ dự phòng trong trường hợp Brexit không có thỏa thuận, về cơ bản tiếp tục áp dụng Thỏa thuận đối tác kinh tế EU-Nhật Bản (EPA) có hiệu lực vào đầu năm 2019. Tokyo dự kiến sẽ thu được nhiều nhượng bộ hơn từ Vương quốc Anh thời hậu Brexit khi đàm phán một hiệp định thương mại song phương.
Những người ủng hộ Brexit tuyên bố rằng, Vương quốc Anh sẽ kết thúc FTA với một số quốc gia, bao gồm cả các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như Mỹ dường như sẽ không xảy ra nhanh chóng. Tuy nhiên, bất kể nước Anh có khả năng gia nhập CPTPP hay không, khái niệm “nước Anh toàn cầu” mà London đang đi đầu là điều đáng được hoan nghênh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mặc dù đó hầu như không phải là thuốc chữa bách bệnh cho những thách thức hậu Brexit đối với Vương quốc Anh, nhưng chắc chắn tốt hơn so với triển vọng của một Vương quốc Anh thu hẹp. Việc nước Anh tham gia CPTPP có thể sớm là hành động củng cố niềm tin của Anh.
Hóa giải điểm 'nghẽn' giúp ngành da giày tận dụng tốt CPTPP và EVFTA  
Ngành da giày Việt Nam đang đứng trước những cơ hội lớn từ các hiệp định thương mại như Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA)…
Tuy nhiên, để tận dụng được cơ hội này thì ngành cần giải quyết các điểm "nghẽn" như công nghiệp phụ trợ, nguyên phụ liệu còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu…
Đây cũng là đề xuất đưa ra tại diễn đàn “Ngành da giầy Việt Nam - đón đầu cơ hội CPTPP và EVFTA,” do Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Báo Nhân Dân tổ chức ngày 13/12, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Số liệu đưa ra tại diễn đàn cho thấy năm 2018, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm giày dép tới hàng trăm nước, trong đó trên 50 nước có kim ngạch xuất khẩu hơn 1 triệu USD.
Trong khi đó, thị trường nội địa cũng đầy tiềm năng với dân số 95 triệu người. Ước tính, nhu cầu tiêu thụ giày dép tại Việt Nam năm 2018 khoảng 190 triệu đôi (bình quân 1,9 đôi/người/năm) và tiếp tục tăng do người dân có thu nhập ngày càng cao.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh nhờ những bước chuyển mình trong thời gian qua, ngành da giày Việt Nam luôn duy trì được vị thế trên thị trường thế giới, đứng thứ hai chỉ sau Trung Quốc.
Đặc biệt, ngành da giày đang có cơ hội lớn đến từ các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới. Cụ thể hơn theo ông, khi các hiệp định này có hiệu lực hoàn toàn, hàng rào thuế quan vào thị trường các nước EU và các nước thành viên CPTPP được gỡ bỏ sẽ mở ra cơ hội tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ hơn nữa cho ngành da giày Việt Nam.
Song để tận dụng được các cơ hội trên, lãnh đạo Bộ Công Thương đề nghị ngành da giày cần đặc biệt chú trọng đến nâng cao năng suất, chất lượng nguồn nhân lực... Cùng với đó, ngành cũng cần hình thành các chuỗi giá trị và cụm liên kết, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao giá trị tạo ra trong nước và giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Cùng với ý kiến của lãnh đạo Bộ Công Thương, tại diễn đàn, các chuyên gia đến từ các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp cũng chia sẻ những khó khăn, điểm "nghẽn" và từ đó đưa ra những giải pháp, đề xuất trong bức tranh tổng quan của ngành da giày Việt Nam.
Những chia sẻ, kinh nghiệm và các khuyến nghị này cũng là cơ sở để cơ quan Chính phủ xây dựng dự thảo Chiến lược phát triển ngành da giầy trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đi vào hiệu lực.

Long Giang
Nguồn: VITIC/WTO/Bloomberg…
 

  PRINT     BACK

© Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại – Bộ Công Thương ( VITIC)
Giấy phép của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin Điện tử - Bộ Thông tin và Truyền Thông số 56/GP-TTDT

Địa chỉ: Phòng 605, tầng 6, tòa nhà Bộ Công Thương, 655 Phạm Văn Đồng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Điện thoại:(04) 39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312

Email: Asem@vtic.vn; Asemconnectvietnam@gmail.com
Ghi rõ nguồn "AsemconnectVietnam.gov.vn" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25710702572