Thứ bảy, 27-4-2024 - 4:22 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Tình hình kinh tế các nước Châu Âu tháng 10 

 Thứ tư, 31-10-2018

AsemconnectVietnam - Trong tháng 10 vừa qua, kinh tế các nước Châu Âu có những diễn biến sau: Kinh tế Eurozone đã giảm tốc; Tỷ lệ thất nghiệp của Ai Len thấp nhất kể từ năm 2008; Lạm phát của Đức tăng cao nhất trong gần 7 năm; Tỷ lệ lạm phát hàng năm của Bồ Đào Nha tăng lên 1,4%.

Khu vực Eurozone

Kinh tế Eurozone đã giảm tốc
Khu vực sử dụng đồng tiền chung euro (Eurozone) đã mất đà trong tháng 9 vừa qua.
Công ty thông tin tài chính IHS Markit công bố kế quả khảo sát cho thấy nền kinh tế của Khu vực sử dụng đồng tiền chung euro (Eurozone) đã mất đà trong tháng Chín vừa qua, dù lĩnh vực dịch vụ ở Italy vẫn duy trì được "phong độ". 
IHS Markit cho biết chỉ số tổng hợp các nhà quản lý mua hàng của họ, được xem như là thước đo quan trọng về hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ và sản xuất, đã giảm xuống từ 54,5 điểm hồi tháng Tám, xuống còn 54,1 điểm trong tháng Chín.
Ông Chris Williamson, chuyên gia cấp cao của IHS Markit, cho rằng sự sụt giảm này sẽ còn tiếp diễn trong quý IV/2018, khi những tháng gần đây đã ghi nhận sự mất đà rõ ràng về cả sản lượng lẫn đơn đặt hàng mới. 

Dù chỉ số ở trên mức 50 điểm vẫn cho thấy sự phát triển trong các lĩnh vực này nhưng sự sụt giảm kể trên là một bằng chứng nữa cho thấy kinh tế Eurozone đã giảm tốc trong suốt mùa Hè khi hoạt động thương mại chững lại.
Những căng thẳng thương mại trên toàn thế giới, chủ yếu là giữa Mỹ và Trung Quốc, đã làm dấy lên những lo ngại rằng chủ trương bảo hộ đang gia tăng và làm phương hại đến hoạt động kinh doanh. 
Dù xuất khẩu sa sút, nhưng kết quả khảo sát của IHS Markit cho thấy kinh tế Eurozone gồm 19 thành viên vẫn tăng trưởng 0,5% trong quý III, mức tăng trưởng khá mạnh so với các mức ghi nhận trong 10 năm qua. 
Điểm thú vị là kết quả khảo sát cho thấy lĩnh vực dịch vụ của Italy lại tăng trưởng mạnh trong tháng Chín vừa qua, bất chấp những lo ngại đang gia tăng trên các thị trường tài chính về những chính sách kinh tế của chính phủ mới.
Hầu như không chuyên gia nào dự đoán rằng Italy sẽ bứt phá khỏi thời kỳ tăng trưởng ảm đạm của hiện tại, đặc biệt nếu kinh tế toàn cầu tiếp tục sa sút trước sự gia tăng của các chính sách bảo hộ. Điều này có nghĩa là phần lớn đà tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới có thể ngày càng phụ thuộc vào nhu cầu trong nước, thay vì hoạt động thương mại. 
Đây có thể là một mối lo đối với khu vực Eurozone. Những số liệu khác nhau từ Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (EU) cho thấy doanh thu bán lẻ trong tháng Tám đã sụt giảm tháng thứ hai liên tiếp, với mức giảm 0,2% so với tháng trước đó và cũng giảm khoảng 0,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tỷ lệ thất nghiệp Eurozone giảm xuống mức thấp nhất trong gần 10 năm
Tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực đồng Euro đã giảm xuống còn 8,1% trong tháng 8 so với 8,2% của tháng 7 và thấp hơn mức dự báo 9% của một năm trước đó. Đó là tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất kể từ tháng 11/2008, khi số người thất nghiệp tiếp tục giảm.
So với tháng 7, số người thất nghiệp ở khu vực sử dụng đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone) giảm 102.000 người xuống 13.220 triệu người. So với năm trước, số người thất nghiệp giảm 1,419 triệu người.
Tỷ lệ thất nghiệp của cả khu vực EU28 là 6,8% trong tháng 8, ổn định so với tháng trước và giảm so với 7,5% của một năm trước đó. Đây là tỷ lệ thấp nhất được ghi nhận trong EU28 kể từ tháng 4/2008. Số người thất nghiệp là 16,657 triệu người, giảm 114.000 người so với tháng trước và 1,921 triệu người của tháng 5/2017.
Trong số các nước thành viên EU, tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong tháng 8 ở Cộng hòa Séc (2,5%), Đức và Ba Lan (3,4%). Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất được ghi nhận ở Hy Lạp (19,1% vào tháng 6/2018) và Tây Ban Nha (15,2%). So với một năm trước, mức giảm lớn nhất tại Síp (7,5% từ 10,5%), Croatia (8,5% từ 10,9%), Hy Lạp (19,1% từ 21,3% từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2017) và Bồ Đào Nha (6,8% từ 8,8%).
Tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm tuổi thanh niên là 14,8% tại EU28 và 16,6% trong khu vực Eurozone, so với 16,6% và 18,5% tương ứng trong tháng 8/2017. Tỷ lệ thấp nhất ở Đức (6,2%), Cộng hòa Séc (6,3%) và Hà Lan (7,7%), trong khi cao nhất tại Hy Lạp (39,1% vào tháng 6/2018), Tây Ban Nha (33,6%) và Ý (31%).
Tỷ lệ lạm phát của Eurozone ở mức 2,1% trong tháng 9
Tỷ lệ lạm phát hàng năm trong khu vực đồng Euro được xác nhận ở mức 2,1% trong tháng 9, cao hơn 2% trong tháng trước đó. Áp lực tăng chủ yếu đến từ giá năng lượng và thực phẩm chưa qua chế biến.
Giá cả tăng với tốc độ nhanh hơn đối với năng lượng (9,5% so với 9,2% trong tháng 8) và thực phẩm chưa qua chế biến (3,2% so với 2,5%) trong khi chi phí giảm với thức ăn chế biến (2,2% so với 2,4%). Trong khi đó, lạm phát ổn định đối với dịch vụ (1,3%) và hàng công nghiệp phi năng lượng (0,3%).
Trong số các nền kinh tế lớn nhất của Eurozone, tỷ lệ hàng năm cao nhất tại Pháp (2,5%), tiếp theo là Tây Ban Nha (2,3%), Đức (2,2%) và Ý (1,5%).
Lạm phát lõi hàng năm, không bao gồm giá năng lượng, thực phẩm, rượu và thuốc lá được xác nhận ở mức 0,9% trong tháng 9, từ mức giảm 0,9% trong tháng 8.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,5% trong tháng 9, sau khi tăng 0,2% trong tháng trước và phù hợp với dự báo của thị trường.
Ai Len
Tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất kể từ năm 2008
Số liệu do Cơ quan thống kê Ai-len công bố cho biết, tỷ lệ thất nghiệp điều chỉnh theo mùa của Ai-len giảm xuống còn 5,4% trong tháng 9 từ 5,6% trong tháng trước và là tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất kể từ tháng 2/2008.
Số người thất nghiệp điều chỉnh theo mùa là 129.400, giảm từ 134.200 của tháng 8 và giảm 25.700 người so với cùng kỳ năm ngoái.
Tỷ lệ thất nghiệp của nam giới được ghi nhận ở mức 5,7%, giảm từ 5,8% trong tháng 8 và so với 6,9% một năm trước đó; trong khi nữ giới giảm 5,1% so với 5,4% của tháng trước và 6,3% vào tháng 8/2017. Số nam giới thất nghiệp giảm 1.800 người so với tháng trước xuống còn 73.200 người và số nữ giới giảm từ 3.000 người xuống còn 56.200 người.
Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp giảm xuống còn 12,9% trong tháng 8 từ 13,9% trong tháng trước đó, đây là tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất kể từ tháng 6/2008. Thất nghiệp đã giảm mạnh kể từ khi tỷ lệ thất nghiệp đạt mức cao 16% vào đầu năm 2012.
Thặng dư thương mại tăng 24,7% so với cùng kỳ năm ngoái
Theo Cơ quan thống kê Ai len, thặng dư thương mại của Ai len tăng lên 4,39 tỷ EUR trong tháng 8 từ 3,52 tỷ EUR trong cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu tăng 20% ​​so với năm trước lên 11,56 tỷ EUR vào tháng 8, do doanh số bán dược phẩm và các sản phẩm y tế (44%); hóa chất hữu cơ (50%), máy móc văn phòng và máy xử lý dữ liệu tự động (37%).
Xuất khẩu sang EU tăng 22% đạt 6,12 tỷ EUR trong tháng 8, chiếm 53% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, trong đó 1,57 tỷ EUR tới Bỉ và 1,07 tỷ EUR tới Đức. Xuất khẩu đến Vương quốc Anh, giảm 5% xuống 1,13 tỷ EUR. Mỹ là thị trường lớn nhất của EU với 3,16 tỷ EUR, chiếm 27% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong khi đó, nhập khẩu tăng 18% lên 7,17 tỉ EUR, tăng chủ yếu từ các sản phẩm y tế và dược phẩm (48%), nhiên liệu khoáng (53%), máy văn phòng và máy xử lý dữ liệu tự động (53%).
Nhập khẩu từ EU tăng 21% lên 4,22 tỷ EUR, chiếm 59% tổng nhập khẩu của Ai-len. Ngoài ra, nhập khẩu từ Anh tăng 2% lên 1,45 tỷ EUR, từ Mỹ 1,30 tỷ EUR, tương đương 18%, và Trung Quốc với 0,55 tỷ EUR (8%).
Tính chung 8 tháng đầu năm, thặng dư thương mại đã tăng lên 35,19 tỷ EUR từ mức 30,06 tỷ EUR, khi xuất khẩu tăng 12% lên 91,95 tỷ EUR và nhập khẩu tăng chậm hơn 9% lên 56,76 tỷ EUR.
Pháp
Theo Viện Thống kê và Nghiên cứu kinh tế quốc gia Pháp (INSEE), tỷ lệ lạm phát hàng năm của Pháp ở mức 2,2% trong tháng 9 năm 2018, không thay đổi so với ước tính sơ bộ và thấp hơn mức cao nhất trong hơn 6 năm trong tháng 8 là 2,3%. Lạm phát giảm đối với dịch vụ và năng lượng, trong khi sản phẩm sản xuất giảm phát sâu.
Lạm phát giảm nhẹ đối với năng lượng (12,8% từ 13% trong tháng 8) và dịch vụ (1,1% từ 1,3%) trong khi giá sản phẩm sản xuất giảm hơn một tháng trước đó (giảm 0,2% từ mức giảm 0,1%). Trong khi đó, giá lương thực tăng 2,8% (so với 2,2% trong tháng 8), tăng bởi thực phẩm tươi sống (11,2% so với 6,9%). Lạm phát là ổn định với sản phẩm thực phẩm khác (1,4%) và thuốc lá (16,8%).
Tỷ lệ lạm phát lõi hàng năm, không bao gồm giá khu vực công, giá tiêu dùng dễ biến động và các biện pháp thuế giảm xuống 0,7% trong tháng 8 từ 0,9% trong tháng 8.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng giảm 0,2% trong tháng 9, trái ngược với mức tăng 0,5% trong tháng 8 và phù hợp với dự báo của thị trường giảm 0,2%. Lạm phát giảm xuất phát từ việc giảm giá dịch vụ theo mùa (giảm 1,5% từ 0,3%). Ngược lại, giá sản phẩm sản xuất tăng nhanh hơn (1,3% từ mức 1,1%) sau khi kết thúc doanh thu mùa hè vào tháng 8. Ngoài ra, giá lương thực tăng nhanh (0,6% từ 0,3%), trong khi đó, giá năng lượng tăng 0,9% so với tháng trước sau khi ổn định trong tháng 8.
Chỉ số giá tiêu dùng harmonized tăng 2,5% so với năm trước (so với 2,6% trong tháng 8); và giảm 0,2% so với tháng trước (so với 0,5% trong tháng 8).
Tây Ban Nha
Tỷ lệ lạm phát ở Tây Ban Nha tăng lên 2,3% trong tháng 9 từ 2,2% trong tháng 8, cao hơn so với ước tính sơ bộ 2,2% và cao hơn dự báo của thị trường về mức tăng 2,2%. Đây là tỷ lệ lạm phát cao nhất kể từ tháng 6, chủ yếu là do chi phí nhà ở.
So với cùng kỳ năm ngoái, giá tăng đối với nhà ở (5,3% so với 4,3% trong tháng 8), chủ yếu do giá điện tăng cao hơn; nhà hàng và khách sạn (1,9% so với 1,8%); quần áo và giày dép (1% so với 0,9%); sức khỏe (0,1%) và giáo dục (1% so với 0,8%). Ngoài ra, chi phí các hoạt động văn hóa và giải trí giảm 1% so với mức giảm 1,1% trong tháng 8.
Trong khi đó, giá giảm đối với thực phẩm và đồ uống không cồn (1,7% so với 2%), cụ thể là hoa quả và rau; vận tải (5% so với 5,2%) và đồ nội thất (0,2% so với 0,3%). Ngoài ra, lạm phát ổn định đối với hàng tạp hóa và dịch vụ (1%, không đổi so với tháng 8) và thông tin liên lạc (2,6%).
Lạm phát lõi hàng năm, không bao gồm các mặt hàng dễ biến động như thực phẩm và năng lượng, không đổi ở mức 0,8% trong tháng 8.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,2% so với mức tăng 0,1% trong tháng 8, phù hợp với ước tính sơ bộ và phù hợp với dự báo của thị trường. Trong đó, giá quần áo và giày dép (5,3%); nhà ở (1,1%) và vận tải (0,4%). Ngược lại, chi phí các hoạt động văn hóa và giải trí giảm 3,1%.
Chỉ số giá tiêu dùng harmonized tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước, sau khi tăng 2,2% trong tháng 8 và tăng 0,2% so với tháng trước.
Đức
Theo Cơ quan thống kê Đức, tỷ lệ lạm phát của Đức tăng lên 2,3% trong tháng 9 từ 2% trong tháng trước và phù hợp với ước tính sơ bộ. Đây là tỷ lệ lạm phát cao nhất kể từ tháng 11/2011, khi giá dịch vụ, năng lượng và thực phẩm tăng cao hơn.
Lạm phát dịch vụ tăng 1,5% trong tháng 9 từ 1,4% trong tháng trước, với chi phí thuê nhà không bao gồm chi phí sưởi ấm tăng 1,5% so với 1,6% trong tháng 8. Áp lực tăng lên đến từ: ngày lễ trọn gói (3,1%); bảo dưỡng và sửa chữa xe cộ (2,7%). Trong khi đó, người tiêu dùng trả ít hơn cho các dịch vụ giáo dục mầm non và tiểu học (giảm 11,4%); vé máy bay (giảm 3,9%) và dịch vụ viễn thông (giảm 0,7%).
Ngoài ra, giá hàng hóa tăng 3,1% trong tháng 9, sau khi tăng 2,7% trong tháng 8, tăng bởi giá năng lượng (7,7% so với 6,9%) và thực phẩm (2,8% so với 2,5%).
Giá thực phẩm và đồ uống không cồn tăng 2,8%, sau khi tăng 2,4% trong tháng 8. Giá hoa quả tăng 2,7%; sản phẩm từ sữa và trứng (3,5%) và rau (12,3%).
Giá năng lượng tăng 7,7%, sau khi tăng 6,9% trong một tháng trước đó. Giá tăng chủ yếu là: dầu nóng (35,6%); nhiên liệu động cơ (13%); điện (0,9%); chi phí sưởi ấm (2,4%). Ngược lại, giá gas giảm 1,5%.
Trên cơ sở hàng tháng, chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,4% trong tháng 9, sau khi tăng 0,1% trong một tháng trước đó và phù hợp với ước tính sơ bộ. Giá năng lượng tăng 2%, đặc biệt là các sản phẩm dầu mỏ tăng 4,3%, trong đó dầu nóng tăng 9,7% và nhiên liệu động cơ tăng 2,6%. Giá quần áo tăng 8,1%, đặc biệt là do thu mùa thu/mùa đông bắt đầu đến. Ngoài ra, giá lương thực tăng 0,9%, đặc biệt đối với rau quả (7,8%). Trong khi đó, giá giảm đối với các ngày lễ trọn gói (giảm 19,5%), và vé máy bay (giảm 4,2%).
Chỉ số giá tiêu dùng harmonized tăng 2,2% so với năm trước và tăng 0,4% so với tháng trước.
Bồ Đào Nha
Tỷ lệ lạm phát hàng năm của Bồ Đào Nha tăng lên 1,4% trong tháng 9 từ mức thấp nhất trong 3 tháng là 1,2% trong tháng trước và phù hợp với ước tính sơ bộ. Áp lực tăng lớn nhất đến từ giá của vận tải, nhà hàng và khách sạn.
So với cùng kỳ năm ngoái, giá tăng nhanh hơn đối với vận tải (4,62% so với 4% trong tháng 8); nhà hàng và khách sạn (3,3% so với 1,11%); hàng hóa và dịch vụ khác (0,57% so với 0,48%) và nhà ở & tiện ích (2,66% so với 2,65%), trong đó giá thuê nhà (2,3% so với 2,2%).
Mặt khác, giá thức ăn và đồ uống không cồn giảm (0,84% ​​so với 0,9%); văn hóa và giải trí (0,35% so với 0,49%); y tế (1,19% so với 1,22%), đồ uống có cồn và thuốc lá (2,15% so với 2,4%). Ngoài ra, giá quần áo và giày dép giảm 3,6% so với mức giảm 2,46% và đồ nội thất, thiết bị gia dụng (giảm 0,35% so với mức giảm 0,31%).
Tỷ lệ lạm phát lõi hàng năm, trong đó không bao gồm giá năng lượng và sản phẩm thực phẩm chưa chế biến tăng lên 0,9%, phù hợp với con số sơ bộ, từ 0,6% trong tháng trước đó.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 1,1% bằng với ước tính ban đầu, sau khi giảm 0,3% trong tháng 8, khi chi phí phục hồi với cả quần áo và giày dép (18,81% so với mức giảm 5,59%), nhà hàng và khách sạn (2,51% so với mức giảm 1,84%).
Chỉ số giá tiêu dùng harmonized tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước (1,3% trong tháng 8) và tăng 1,5% so với tháng trước, tăng trở lại từ mức giảm 0,7% của tháng trước đó.
N.Nga
Nguồn: Vitic/Tradingeconomics/Bnews
 

  PRINT     BACK

© Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại – Bộ Công Thương ( VITIC)
Giấy phép của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin Điện tử - Bộ Thông tin và Truyền Thông số 56/GP-TTDT

Địa chỉ: Phòng 605, tầng 6, tòa nhà Bộ Công Thương, 655 Phạm Văn Đồng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Điện thoại:(04) 39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312

Email: Asem@vtic.vn; Asemconnectvietnam@gmail.com
Ghi rõ nguồn "AsemconnectVietnam.gov.vn" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25710918061