Thứ bảy, 27-4-2024 - 0:53 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Tình hình kinh tế các nước Đông Nam Á tháng 10 

 Thứ tư, 31-10-2018

AsemconnectVietnam - Trong tháng 10 vừa qua, kinh tế các nước ASEAN có những diễn biến sau: Tỷ lệ lạm phát của Philippines cao nhất trong hơn 9 năm qua; Thặng dư thương mại Malaysia thấp nhất trong hơn 5 năm qua; Tỷ lệ lạm phát của Singapore thấp hơn dự báo.

Philippines

Số liệu do Cơ quan thống kê Philippines công bố cho biết, lạm phát của nước này trong tháng 9 tăng lên 6,7% từ 6,4% trong tháng trước và so với dự báo của thị trường là 6,8%. Đây là mức lạm phát cao nhất kể từ tháng 2/2009, do giá thực phẩm tăng và chi phí vận chuyển tăng nhanh hơn.
So với cùng kỳ năm ngoái, giá đồ uống không cồn tăng 9,7% trong tháng 9, sau khi tăng 8,5% trong tháng 8 và đánh dấu mức lạm phát thực phẩm cao nhất kể từ tháng 3/2009.
Ngoài ra, áp lực tăng giá đến từ: đồ uống có cồn và thuốc lá (21,8% từ 21,6% trong tháng 8); quần áo và giày dép (2,5% từ 2,4%); nhà ở, nước, điện, khí đốt và các nhiên liệu khác (4,6% từ 5,5%); trang trí nội thất, thiết bị gia dụng và bảo trì định kỳ (3,6% từ 3,5%); chăm sóc sức khỏe (4,1% từ 4%); vận tải (8% từ 7,8%); truyền thông (0,5%); văn hóa và giải trí (3% từ 2,4%); nhà hàng, hàng tạp hoá và dịch vụ khác (4%). Mặt khác, chi phí tiếp tục giảm đối với giáo dục (giảm 3,8%).
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,8%, sau khi tăng 0,9% trong tháng 8. Giá tăng đối với: đồ uống và đồ uống không cồn (1,8%); đồ uống có cồn và thuốc lá (0,4%); quần áo và giày dép (0,3%); nhà ở, nước, điện, gas và các nhiên liệu khác (0,4%); trang trí nội thất, thiết bị gia dụng và bảo dưỡng định kỳ nhà (0,3%); sức khỏe (0,2%); vận tải (0,9%); nhà hàng, hàng tạp hóa và dịch vụ khác (0,4%) và giáo dục (0,1%). Trong khi đó, lạm phát không đổi với thông tin liên lạc; giải trí và văn hóa và giáo dục.
Trong tháng 3/2018, Cơ quan Thống kê Philippines đã quyết định khôi phục lại chuỗi CPI vào năm 2012 từ năm 2006 để phù hợp với những thay đổi kinh tế trong nước. Trước đó, Ngân hàng trung ương đặt mục tiêu lạm phát từ 2-4% từ năm 2018 đến năm 2020.
Malaysia
Số liệu do Cơ quan thống kê Malaysia công bố cho biết, thặng dư thương mại của Malaysia giảm mạnh xuống 1,6 tỷ MYR trong tháng 8 từ 9,9 tỷ MYR trong cùng kỳ năm trước và thấp hơn nhiều so với ước tính của thị trường về thặng dư 9 tỷ MYR. Đây là thặng dư thương mại thấp nhất kể từ tháng 4/2013, khi xuất khẩu giảm trong khi nhập khẩu tăng mạnh.
Trong tháng 8 doanh số bán hàng giảm 0,3% so với một năm trước đó xuống 81,8 tỷ MYR từ mức tăng 9,4% trong tháng 7 và thấp hơn dự báo của thị trường về mức tăng trưởng 5,7%. Đây là lần giảm đầu tiên kể từ tháng 2, khi doanh thu giảm do: dầu cọ và các sản phẩm từ dầu cọ (giảm 22,9% xuống 5,1 tỷ MYR; 6,2% tổng kim ngạch xuất khẩu); khí thiên nhiên hóa lỏng/LNG (giảm 22,5% xuống 3,2 tỷ MYR, 3,9% tổng xuất khẩu); cao su thiên nhiên (giảm 10,5% đến 337 triệu MYR, 0,4% tổng xuất khẩu), gỗ và các sản phẩm từ gỗ (giảm 2,4% đến 2 tỷ, 2,4% tổng xuất khẩu). Ngược lại, doanh thu tăng đối với: sản phẩm điện và điện tử (3,2% lên 32 tỷ MYR, 39,2% tổng kim ngạch xuất khẩu); dầu thô (64,9% đến 3,3 tỷ MYR, 4% tổng kim ngạch xuất khẩu); sản phẩm dầu mỏ tinh chế (5,4% đến 4,5 tỷ MYR, 5,5% tổng xuất khẩu).
Doanh thu tới Mỹ giảm 2%; EU giảm 8,9% trong khi đến Trung Quốc tăng 4,5%; Singapore tăng 2,2%.
Nhập khẩu tăng 11,2% so với cùng kỳ lên 80,2 tỷ MYR vào tháng 8 từ mức tăng 10,3% của tháng trước và cao hơn dự báo của thị trường tăng 10,1%, khi hàng hóa tăng 25,3% lên 11,7 tỷ MYR, chủ yếu là do tăng các thiết bị vận tải, công nghiệp (180,2%), và hàng hóa vốn ngoại trừ thiết bị vận tải (13,1%). Ngoài ra, nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng 14,2% lên 7,1 tỷ MYR), dẫn đầu bởi hàng dệt may (57,9%). Ngoài ra, nhập khẩu hàng trung gian tăng 4,3% lên 45 tỷ MYR, chủ yếu do phụ tùng và phụ tùng nhiên liệu, sơ cấp tăng 126,4%, linh kiện và phụ tùng của thiết bị vận tải (33,1%).
Trong tháng 7, Malaysia đạt thặng dư thương mại đạt 8,3 tỷ MYR.
Xét trong 8 tháng đầu năm, thặng dư thương mại của Malaysia tăng lên 70,4 tỷ MYR từ mức 63 tỷ MYR trong cùng kỳ năm 2017.
Indonesia
Số liệu do Cơ quan thống kê Indonesia công bố cho biết, thặng dư thương mại của Indonesia giảm mạnh xuống 0,23 tỷ USD trong tháng 9 từ mức 1,79 tỷ USD của một năm trước đó. Xuất khẩu tăng 1,7% lên 14,83 tỷ USD trong khi nhập khẩu tăng 14,18% lên 14,6 tỷ USD.
Xuất khẩu tăng 1,7% so với một năm trước đó lên 14,83 tỷ USD, thấp hơn so với dự báo của thị trường về mức tăng 7,58% và sau khi tăng 4,52% trong tháng trước đó. Doanh thu từ các sản phẩm phi dầu và khí đốt tăng 3,78% lên 13,62 tỷ USD trong khi dầu và khí đốt giảm 16,99% xuống còn 1,21 tỷ USD.
So với tháng 8, xuất khẩu giảm 6,58%, khi các sản phẩm phi dầu mỏ và khí đốt giảm 5,67%, dầu và khí đốt giảm 15,81%. Xuất khẩu máy móc/máy bay cơ giới giảm 11,6%; đồ trang sức giảm 20,13%; giày dép giảm 13,69%; máy móc và thiết bị điện giảm 11,48%. Ngược lại, doanh thu tăng lên đối với trái cây (14,38%); sắt thép (20,23%); thiếc (7,56%); quặng, vỏ kim loại và tro kim loại (18,86%); bột giấy (5,65%). Doanh thu giảm xuống với Trung Quốc (giảm 8,66%); Mỹ (giảm 6,9%); Nhật Bản (giảm 10,11%); Đài Loan (giảm 23,43%); Singapore (giảm 16,9%); Úc (giảm 8,37%); Malaysia (giảm 11,84%); Đức (giảm 12,19%) và Hà Lan (giảm 9,54%). Trong khi đó, doanh số bán hàng tăng lên tới Hàn Quốc (13,33%); Ấn Độ (3,3%); Thái Lan (0,48%) và Ý (6,46%).
Nhập khẩu tăng 14,18% so với một năm trước đó lên 14,6 tỷ USD trong tháng 9, sau khi tăng 24,49% trong tháng trước và thấp hơn nhiều so với dự báo tăng 24,76%. Mua bán dầu và khí đốt tăng 13,54% lên 12,32 tỷ USD trong khi dầu và khí đốt tăng 17,75% lên 2,28 tỷ USD.
So với tháng 8, nhập khẩu giảm 13,18%, trong đó việc mua dầu và khí đốt giảm 10,52%, ngược lại dầu và khí đốt giảm 25,2%. Nhập khẩu giảm đối với tất cả các loại: nguyên liệu thô (giảm 13,53%); hàng hóa vốn (giảm 10,45%) và hàng tiêu dùng (giảm 14,97%). Trong số các đối tác thương mại lớn, nhập khẩu giảm từ: Trung Quốc (giảm 6,42%); Mỹ (giảm 1,38%); Nhật Bản (giảm 13,7%); Đài Loan (giảm 8,98%); Hàn Quốc (giảm 9,95%); Singapore (giảm 13,31%); Thái Lan (giảm 2,99%); Malaysia (giảm 3,1%); Đức (giảm 25,07%); Úc (giảm 31,64%) và Ấn Độ (giảm 15,63%). Mặt khác, nhập khẩu tăng lên với Ý (3,44%) và Hà Lan (24,45%).
Tính từ tháng 1 đến tháng 9, Indonesia thâm hụt thương mại 3,78 tỷ USD, so với mức thặng dư 10,86 tỷ USD trong cùng kỳ năm 2017.
Singapore
Theo Cơ quan thống kê Singapore, tỷ lệ lạm phát của Singapore là 0,7% trong tháng 9, thấp hơn dự báo của thị trường là 0,8%. Giá tăng ít chủ yếu cho thực phẩm, quần áo và giày dép, giải trí và văn hóa. Trong khi đó, lạm phát tăng đối với giáo dục và chi phí giảm ở tốc độ chậm hơn với nhà ở và vận tải.
Trong tháng 9, lạm phát lương thực giảm xuống 1,6% từ mức 1,7% trong tháng trước đó. Trong số các loại thực phẩm không bao gồm dịch vụ ăn uống, chi phí tăng ít hơn với dầu và chất béo (0,7% so với 3,9% trong tháng 8); trái cây (3,3% so với 3,4%); đường, chất bảo quản và bánh kẹo (1,7% so với 3,3%) và đồ uống không cồn (2,2% so với 2,3%) và thịt (giảm 0,3% so với mức giảm 0,8%). Ngược lại, giá tăng hơn nữa với bánh mì và ngũ cốc (2,9% so với 2,3%); sữa, phô mai và trứng (1,5% so với 1,4%); và các thực phẩm khác (2,1% so với 1,7%). Trong số các dịch vụ cung cấp thực phẩm, lạm phát tăng đối với thực phẩm nhà hàng (2% so với 1,9%), thực phẩm bán rong bao gồm cả khu ăn uống (1,6% so với 0,4%); trong khi giảm với thức ăn nhanh (0,2% so với 0,4%).
Ngoài ra, lạm phát giảm đối với quần áo và giày dép (1,8% so với 2,8%), văn hóa và giải trí (1,2% so với 1,6%), do chi phí nghỉ lễ (2,7%, không đổi so với tháng trước). Trong khi đó, lạm phát ổn định đối với hàng tạp hóa và dịch vụ (1,1%) và chăm sóc sức khỏe (2%).
Trong khi đó, giá tăng nhanh hơn với giáo dục (2,9% so với 2,4%), đồ dùng gia đình và dịch vụ (0,8% so với 0,7%), chủ yếu do dịch vụ gia đình (1,3%, không đổi so với tháng 8).
Ngược lại, giá giảm với tốc độ chậm hơn đối với nhà ở và đồ thiết yếu (giảm 0,5% so với mức giảm 0,6%) và vận tải (giảm 0,1% so với mức giảm 0,2% trong tháng 8).
Lạm phát lõi hàng năm, không bao gồm chi phí chỗ ở và vận tải đường bộ tư nhân, giảm xuống 1,8% trong tháng 9 từ 1,9% trong tháng 8 và thấp hơn so với dự báo 1,9%.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng không thay đổi, sau khi tăng 0,4% trong tháng 8.
N.Nga
Nguồn: Vitic/Tradingeconomics
 

  PRINT     BACK

© Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại – Bộ Công Thương ( VITIC)
Giấy phép của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin Điện tử - Bộ Thông tin và Truyền Thông số 56/GP-TTDT

Địa chỉ: Phòng 605, tầng 6, tòa nhà Bộ Công Thương, 655 Phạm Văn Đồng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Điện thoại:(04) 39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312

Email: Asem@vtic.vn; Asemconnectvietnam@gmail.com
Ghi rõ nguồn "AsemconnectVietnam.gov.vn" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25710913764