Thứ sáu, 26-4-2024 - 20:13 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Tình hình lạm phát các nước trong tháng 8 

 Thứ ba, 28-8-2018

AsemconnectVietnam - 

Hàn Quốc
Số liệu do Cơ quan thống kê Hàn Quốc cho biết, lạm phát giá tiêu dùng của Hàn Quốc trong tháng 7 ở mức 1,5% so với cùng kỳ năm ngoái, không đổi so với hai tháng trước và thấp hơn dự báo của thị trường là 1,7%. Lạm phát lương thực giảm xuống mức thấp nhất trong bốn tháng trong khi chi phí tăng nhanh hơn đối với nhà ở, tiện ích và giao thông.
Trong tháng 7, giá thực phẩm và đồ uống không cồn tăng 1,5% so với 1,8% trong một tháng trước đó. Lạm phát lương thực ở mức thấp nhất kể từ tháng 3. Ngoài ra, chi phí tăng ít hơn cho hàng tạp hóa và dịch vụ (0,6% từ 1% trong tháng 6), trong khi tăng với tốc độ nhanh hơn: nhà ở, nước, điện, khí đốt và các nhiên liệu khác (0,8% từ 0,6%); quần áo và giày dép (1,3% từ 0,7%); đồ đạc, thiết bị gia dụng và bảo dưỡng định kỳ (3,5% từ 1,8%); và vận tải (4,7% từ 4,1%).
Trong khi đó, lạm phát ổn định đối với đồ uống có cồn và thuốc lá (0,2%); giáo dục (1,4%); nhà hàng và khách sạn (2,7%); trong khi chi phí không đổi với hoạt động văn hóa và giải trí (1,2%). Mặt khác, chi phí giảm cho y tế (giảm 1% từ 0,1%) và thông tin liên lạc (giảm 1,5% từ mức giảm 0,6%).
Chỉ số CPI lõi, không bao gồm dầu và các sản phẩm nông nghiệp, tăng 1%, sau khi tăng 1,2% trong tháng 6.
Trong năm 2018, Ngân hàng Hàn Quốc dự báo lạm phát ở mức 1,7%.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,2%, sau khi giảm 0,2% trong tháng 6.
Philippines
Theo Cơ quan thống kê Philippines, tỷ lệ lạm phát của Philippines trong tháng 7 tăng lên 5,7% từ 5,2% trong tháng trước, cao hơn ước tính của thị trường là 5,5%. Đây là mức lạm phát cao nhất kể từ tháng 3/2009, do chi phí tăng với tốc độ nhanh hơn về nhà ở và giao thông trong khi lạm phát lương thực vẫn ở mức cao gần 4 năm.
Trong tháng 7, giá thực phẩm và đồ uống không cồn tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, sau khi tăng 6,1% trong tháng 5. Đây là mức lạm phát thực phẩm cao nhất kể từ tháng 8/2014.
Ngoài ra, chi phí tăng với tốc độ nhanh hơn: đồ uống có cồn và thuốc lá (21,5% từ 20,8% trong tháng 6); quần áo và giày dép (2,4% từ 2,2%); nhà ở, nước. điện, ga và các nhiên liệu khác (5,6% từ 4,6%); trang trí nội thất, thiết bị gia dụng và bảo trì định kỳ (3,3% từ 3%); sức khỏe (3,7% từ 2,7%); vận tải (7,9% từ 7%); và truyền thông (0,5% từ 0,4%). Trong khi đó, lạm phát giảm đối với các hoạt động văn hóa, giải trí (0,9% từ 1,4%); nhà hàng, hàng tạp hóa và dịch vụ (2,3% từ 3,6%); trong khi chi phí giảm cho giáo dục (giảm 3,9% từ 4%).
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,5%, sau khi tăng 0,6% trong tháng 6. Giá tăng đối với: thực phẩm và đồ uống không cồn (0,9%); đồ uống có cồn và thuốc lá (1,1%); quần áo và giày dép (0,34%); nhà ở, nước, điện, ga và các nhiên liệu khác (0,9%); trang trí nội thất, thiết bị gia dụng và bảo dưỡng định kỳ nhà (0,6%); y tế (1,2%); vận tải (0,7%); giao tiếp (0,1%); giải trí và văn hóa (0,3%); nhà hàng và hàng tạp hóa và dịch vụ khác (0,35%). Mặt khác, chi phí giảm mạnh cho giáo dục (giảm 7,3%).
Trong tháng 3, Cơ quan Thống kê Philippine đã quyết định khôi phục lại chuỗi CPI vào năm 2012 từ năm 2006 để phù hợp với những thay đổi kinh tế trong nước.
Năm 2018, ngân hàng trung ương đặt mục tiêu lạm phát từ 2 đến 4%.
Nga
Theo Cơ quan thống kê Liên Bang Nga, tỷ lệ lạm phát hàng năm của Nga tăng lên 2,5% trong tháng 7 từ 2,3% trong tháng trước, thấp hơn so với dự báo của thị trường là 2,6%. Đây là tỷ lệ cao nhất kể từ tháng 12 năm ngoái chủ yếu do giá lương thực tăng trở lại.
Trong các loại hàng hóa, chi phí lương thực tăng 0,5% trong tháng 7, phục hồi từ mức giảm 0,2% trong tháng 6; giá các sản phẩm phi thực phẩm tăng 3,8%, nhanh hơn mức tăng 3,7% của tháng trước. Trong khi đó, lạm phát dịch vụ giảm xuống 3,8% trong tháng 7 từ mức 4,1% trong tháng 6.
Tỷ lệ lạm phát lõi hàng năm đã tăng lên 2,4% trong tháng 7 từ 2,3% trong giai đoạn trước đó và là tỷ lệ cao nhất kể từ tháng 10/2017.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,3% trong tháng 7, sau khi tăng 0,5% vào tháng 6 và thấp hơn mức dự báo của thị trường là 0,5%. Giá phi thực phẩm tăng với tốc độ chậm hơn (0,1% so với 0,4%) và chi phí thực phẩm giảm 0,3% so với 0,4%, trong khi lạm phát dịch vụ tăng (1,3% so với 0,7%).
Brazil
Theo Cơ quan thống kê Brazi, tỷ lệ lạm phát hàng năm của Brazil đã tăng lên 4,48% trong tháng 7 từ 4,39% trong tháng trước, thấp hơn mức dự báo của thị trường là 4,4%. Đây là tỷ lệ cao nhất kể từ tháng 3/2017 chủ yếu do giá thực phẩm và vận chuyển tăng cao. Tuy nhiên, lạm phát thấp hơn tỷ lệ 4,53% vào giữa tháng 7.
So với cùng kỳ năm ngoái, giá tăng thêm đối với thực phẩm và đồ uống (1,4% so với 1,05% trong tháng 6) và vận tải (8,94% so với 8,78%). Mặt khác, lạm phát giảm đối với nhà ở (7,41% so với 7,52%); chăm sóc sức khỏe và cá nhân (5,31% so với 5,63%); chi phí cá nhân (3,37% so với 3,42%); quần áo (1,61% so với 1,8%) và giáo dục (5,05% so với 5,11%).
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,33%, sau khi tăng 1,26% trong tháng 6 nhưng vẫn trên mức dự báo của thị trường tăng 0,27%. Giá giảm nhẹ chủ yếu là vận tải (0,49% so với 1,58%) và nhà ở (1,54% so với 2,48%) trong khi giảm đối với thực phẩm và đồ uống (giảm 0,12% so với 2,03%).
Trung Quốc
Theo Cơ quan thống kê quốc gia Trung Quốc, lạm phát giá tiêu dùng của Trung Quốc đã tăng lên 2,1% trong tháng 7 từ 1,9% trong tháng trước và cao hơn mức dự báo của thị trường là 1,9%. Tỷ lệ lạm phát này đánh dấu mức cao nhất kể từ tháng 3, khi lạm phát thực phẩm ở mức cao trong 3 tháng và chi phí phi lương thực tăng nhanh hơn.
Trong tháng 7, giá lương thực tăng 0,5%, nhanh hơn mức tăng 0,3% của tháng trước đó và là mức lạm phát lương thực cao nhất kể từ tháng 4, do giá trái cây tươi (0,4% từ mức giảm 5,3%); rau quả tươi (3,8% từ 9,3% trong tháng 6) và trứng (11,7% từ 15,1%); trong khi giảm ít hơn đối với thịt lợn (giảm 9,6% từ 12,8%).
Trong khi đó, chi phí phi thực phẩm tăng 2,4%, cao hơn mức tăng 2,2% trong tháng 6. Áp lực tăng đến từ: vận tải và truyền thông (3% từ 2,4%); tiền thuê nhà, nhiên liệu và tiện ích (2,4% từ 2,3%); chăm sóc sức khỏe (4,6% từ 5%); giáo dục, văn hóa và giải trí (2,3% từ 1,8%); hàng hóa và dịch vụ gia đình (1,6% từ 1,5%); quần áo (1,2% từ 1,1%); hàng hóa và dịch vụ khác (1,2% từ 0,9%).
Tỷ lệ lạm phát lõi, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng, ở mức 1,9%, không đổi so với hai tháng trước đó.
Trong  năm 2018, Trung Quốc đặt mục tiêu lạm phát tiêu dùng vào khoảng 3%, phù hợp với con số của năm trước.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,3%, sau khi giảm 0,1% trong tháng 6 trong khi thị trường ước tính tăng 0,2%. Đây là mức tăng hàng tháng đầu tiên trong năm tháng.
Trong khi đó, chỉ số giá sản xuất tăng 4,6% so với một năm trước đó vào tháng 7, sau khi tăng 4,7% trong tháng trước và cao hơn dự báo của thị trường là 4,4%. Giá các phương tiện sản xuất tăng nhẹ (6% từ 6,1% trong tháng 6), cụ thể là khai thác (13,4% từ 11,5%), nguyên liệu (9% từ 8,8%) và chế biến (4,1% từ 4,6%). Trong khi đó, chi phí hàng tiêu dùng tăng hơn (0,6% từ 0,4%), cụ thể là sản xuất lương thực (0,7% từ 0,7%), quần áo (0,7% từ 0,3%); trong khi giá hàng tiêu dùng lâu bền tiếp tục giảm (giảm 0,2% từ mức giảm 0,5%). Trên cơ sở hàng tháng, giá sản xuất tăng 0,1%.
Mexico
Theo Cơ quan thống kê Mexico, tỷ lệ lạm phát của nước này tăng lên 4,81% trong tháng 7 từ 4,65% trong tháng 6 và phù hợp với dự báo của thị trường. Đây là lần tăng thứ hai liên tiếp về lạm phát và mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 3, do giá năng lượng, nhà ở và thực phẩm tăng cao.
So với cùng kỳ năm ngoái, lạm phát tăng lên với năng lượng (17,63% so với 15,22% trong tháng 6); nhà ở (2,61% so với 2,6%) và đồ uống và thuốc lá (4,51% so với 4,49%). Mặt khác, giá giảm đối với các dịch vụ khác bao gồm nhà hàng, dịch vụ điện thoại, dịch vụ y tế và dịch vụ du lịch trọn gói (3,61% so với 3,76%) và giáo dục (4,79% so với 4,81%).
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,54%, sau khi tăng 0,39% trong tháng 6 và cao hơn so với dự báo của thị trường tăng 0,53%. Áp lực tăng chủ yếu đến từ giá xăng (1,81%).
Tỷ lệ lạm phát lõi không bao gồm giá năng lượng và một số thực phẩm dễ biến động tăng 0,29% trong tháng 7 (0,23% trong tháng 6) và tăng 3,63% trên cơ sở hàng năm (3,62% trong tháng 6).
Ailen
Số liệu do Cơ quan thống kê Ailen công bố cho biết, tỷ lệ lạm phá của Ailen tăng lên 0,8% vào tháng 7 từ 0,4% trong tháng 6. Đây là tỷ lệ lạm phát cao nhất kể từ tháng 4/2017, do chi phí vận chuyển tăng nhanh hơn do giá dầu diesel và xăng tăng cao.
So với cùng kỳ năm ngoái, giá tăng nhanh hơn đối với vận tải (2,2% so với 1,5% trong tháng 6), chủ yếu do giá xăng và dầu tăng cao hơn do giá vé máy bay giảm. Ngoài ra, chi phí giảm ít hơn cho đồ nội thất, thiết bị gia dụng và bảo trì hộ gia đình thường xuyên (giảm 3,9% so với mức giảm 4,1%), chủ yếu do chi phí đồ gia dụng, đồ nội thất và đồ gia dụng không bền, đồ gia dụng và đồ thủy tinh, bộ đồ ăn và đồ dùng gia đình ; hàng hóa và dịch vụ khác (giảm 3,2% so với giảm 3,9% trong tháng 6), do sức khỏe, phí bảo hiểm xe máy và các thiết bị, bài báo và sản phẩm để chăm sóc cá nhân; quần áo và giày dép (giảm 0,2% so với giảm 1,4%) và giải trí và văn hóa (giảm 1% so với giảm 1,5% trong tháng 6).
Trong khi đó, lạm phát là ổn định đối với: nhà ở và tiện ích (5,4%, không đổi so với tháng 6), đồ uống có cồn và thuốc lá (2,8%). Ngoài ra, giá cả giảm đối với nhà hàng và khách sạn (1,8% so với 2,1%) và giáo dục (1,5% so với 1,6%). Ngoài ra, giá tiếp tục giảm đối với thực phẩm và đồ uống không cồn (giảm 2,1%, bằng với tháng 6), do giá thấp hơn với một loạt các sản phẩm như thịt, rau, bánh mì và ngũ cốc, mứt, mật ong, sô cô la và bánh kẹo.
Chỉ số giá tiêu dùng lõi, không bao gồm năng lượng và thực phẩm chưa qua chế biến, tăng 0,1%, sau khi giảm 0,2% trong tháng trước đó.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,4%, sau khi tăng 0,1% trong tháng 6. Sự thay đổi giá hàng tháng đáng kể nhất là vận tải (3,2%), nhà hàng và khách sạn (0,8%). Trong khi đó, giá quần áo và giày dép (giảm 5,6%), đồ đạc, thiết bị gia dụng và bảo trì hộ gia đình thường xuyên (giảm 1,4%).
Chỉ số giá tiêu dùng harmonised tăng 1% so với năm trước và tăng 0,4% so với tháng trước.
Ấn Độ
Theo Cơ quan thống kê Ấn Độ, tỷ lệ lạm phát của Ấn Độ giảm xuống 4,17% trong tháng 7 từ 4,92% trong tháng trước và thấp hơn dự báo của thị trường là 4,51%. Tuy nhiên, lạm phát vẫn nằm trên mục tiêu trung hạn của ngân hàng trung ương là 4% trong 9 tháng liên tiếp.
Trong tháng 7, giá thực phẩm và đồ uống giảm xuống 1,73% từ 3,11% trong tháng 6, với chỉ số thực phẩm tăng 1,37% so với 2,91% trong tháng 6. Lạm phát giảm đối với trái cây (6,98% so với 10,06%); các bữa ăn, đồ ăn nhẹ (4,46% so với 4,76%); sữa và các sản phẩm (2,96% so với 3,04%); đồ uống không cồn (1,4% so với 1,96%). Ngoài ra, giá rau cũng giảm 2,19% so với 7,8%; đường và bánh kẹo giảm 5,81% so với 7,11%. Mặt khác, lạm phát tăng với trứng (7,41% so với 5,85%); dầu và chất béo (2,79% so với 2,62%); gia vị (2,66% so với 2,29%); thịt và cá (2,26% so với 2,2%).
Trong số các sản phẩm phi thực phẩm, giá tăng với tốc độ nhẹ hơn: nhà ở (8,3% so với 8,45%); quần áo và giày dép (5,28% so với 5,6%); chảo, thuốc lá (6,34% so với 8,05%). Lạm phát tăng cả về nhiên liệu và điện (7,96% so với 7,22%); và hàng tạp hóa (5,8% so với 5,66%).
Tỷ lệ lạm phát tương ứng cho khu vực nông thôn và thành thị là 4,11% và 4,32%, so với con số của tháng 6 là 4,93% và 4,85%.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,94% trong tháng 7, sau khi tăng 0,51% trong tháng 6.
Ý
Số liệu do Cơ quan thống kê Italia công bố cho biết, tỷ lệ lạm phát ở nước này tăng lên 1,5% trong tháng 7 từ 1,3% trong tháng trước, cao hơn dự báo của thị trường là 1,4%. Đây là tỷ lệ lạm phát cao nhất kể từ tháng 4 năm ngoái, chủ yếu do giá năng lượng cao hơn.
So với cùng kỳ năm ngoái, giá tăng với thực phẩm chưa qua chế biến (3,6% so với 3,4% trong tháng 6) và thực phẩm chế biến (1,8% so với 1,7%). Ngoài ra, chi phí tăng lên cho năng lượng (7,9% so với 4,2%), bởi các sản phẩm năng lượng (5,5% so với mức giảm 1,2%). Ngoài ra, giá cả tăng nhanh hơn cho các nhà hàng và khách sạn (1,2% so với 1%); nhà ở và tiện ích (2,6%); hàng tạp hóa và dịch vụ khác (2,6% so với 2,3%), đồ uống có cồn và thuốc lá (3,8% so với 3,5%). Mặt khác, chi phí giảm với các hoạt động văn hóa và giải trí (0,2% so với 0,9%), quần áo và giày dép (0,1% so với 0,2%). Ngoài ra, giá các dịch vụ y tế giảm 0,1% và lạm phát ổn định cho đồ nội thất và thiết bị gia dụng (0,2%).
Tỷ lệ lạm phát lõi hàng năm, không bao gồm giá năng lượng và thực phẩm chưa qua chế biến tăng 0,7% thấp hơn so với 0,8% trong tháng 6. Chỉ loại trừ năng lượng, lạm phát tăng 0,9% sau khi tăng 1% trong tháng 6.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng tăng 0,3%, sau khi tăng 0,2% trong tháng 6, phù hợp với dự báo của thị trường và ước tính sơ bộ.
Chỉ số giá tiêu dùng harmonized tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước (so với 1,4% trong tháng 6) trong khi giảm 1,4% so với tháng trước (so với 0,2% trong tháng 6).
Bồ Đào Nha
Theo Cơ quan thống kê Bồ Đào Nha, tỷ lệ lạm phát của nước này trong tháng 7 tăng lên 1,6% từ 1,5% trong tháng 6, phù hợp với ước tính sơ bộ và là tỷ lệ lạm phát cao nhất kể từ tháng 4/2017.
So với cùng kỳ năm ngoái, lạm phát hàng tăng chủ yếu là nhà ở và tiện ích (2,6% so với 2,32% trong tháng 6), cụ thể là tiền thuê nhà (2,1% so với 1,9%); hàng tạp hóa và dịch vụ khác (1,58% so với 1,52%), nhà hàng và khách sạn (4,82% so với 3,82%).
Mặt khác, giá giảm đối với thực phẩm và đồ uống không cồn (1,19% so với 1,24%); vận tải (3,98% so với 4,06%) và không đổi với các hoạt động văn hóa, giải trí. Trong khi đó, chi phí giảm cho quần áo và giày dép (giảm 2,81% so với giảm 2,74%) và đồ nội thất (giảm 0,48% so với 0,25%).
Tỷ lệ lạm phát lõi hàng năm, không bao gồm năng lượng và sản phẩm thực phẩm chưa qua chế biến ổn định ở mức 1%, phù hợp với ước tính sơ bộ.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng giảm 0,6% như ước tính ban đầu, sau khi tăng 0,1% trong tháng 6. Sự sụt giảm chủ yếu là giá quần áo và giày dép (giảm 13% so với giảm 1,3% của tháng 6).
Chỉ số giá tiêu dùng harmonized tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước (2% trong tháng 6) và giảm 0,4% so với tháng trước (sau khi không đổi trong tháng 6).
Tây Ban Nha
Tỷ lệ lạm phát ở Tây Ban Nha giảm xuống 2,2% trong tháng 7 từ 2,3% trong tháng trước, phù hợp với ước tính sơ bộ và phù hợp với kỳ vọng của thị trường. Giá giảm chủ yếu do thực phẩm, đồ uống không cồn và vận chuyển.
So với cùng kỳ năm ngoái, giá thực phẩm và đồ uống không cồn giảm xuống 1,8% so với 2,5% trong tháng 6, cụ thể là cá và hải sản, dầu và chất béo và trái cây; vận tải (5,9% so với 6,1%), chủ yếu do vận chuyển hàng không và nhiên liệu và dầu nhờn, y tế (0,1% so với 0,2%). Ngoài ra, phí các hoạt động văn hóa, giải trí giảm 0,6% so với 0,6% trong tháng 6. Mặt khác, chi phí tăng nhanh hơn đối với nhà ở và tiện ích (3,7% so với 2,6%); nhà hàng và khách sạn (2,0% so với 1,7%); quần áo và giày dép (1,0% so với 0,9%); đồ đạc (0,3% so với 0,1%); giáo dục (0,8% so với 0,7%) và thông tin liên lạc (2,7% so với 2,2%). Ngoài ra, lạm phát ổn định đối với hàng hóa và dịch vụ khác (0,9%).
Lạm phát lõi không bao gồm các mặt hàng dễ biến động như thực phẩm và năng lượng, tăng 0,9% trong tháng 7, sau khi tăng 1% trong tháng 6.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng giảm 0,7%, phù hợp với ước tính sơ bộ và dự báo của thị trường. Lạm phát giảm đối với quần áo và giày dép (giảm 12,6%), đồ uống và đồ uống không cồn (giảm 0,7%), đồ đạc (giảm 0,8%) và vận tải (giảm 0,2%).
Chỉ số giá tiêu dùng harmonized tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước, không thay đổi so với tháng 6 và giảm 1,2% so với tháng trước.
Pháp
Số liệu do Viện nghiên cứu kinh tế và Thống kê quốc gia Pháp công bố cho biết, tỷ lệ lạm phát của Pháp đứng ở mức 2,3% trong tháng 7, không thay đổi so với ước tính sơ bộ và cao hơn 2% của tháng 6. Đây là tỷ lệ lạm phát cao nhất kể từ tháng 3/2012, do giá năng lượng, dịch vụ và thuốc lá tăng cao.
Giá năng lượng tăng 14,3% trong tháng 7, sau khi tăng 12,3% trong tháng trước, chủ yếu được đẩy mạnh bởi chi phí khí đốt (17,3% so với 6,4% trong tháng 6) và các sản phẩm dầu mỏ (21,8% so với 21%). Áp lực tăng thêm đến từ: dịch vụ (1,3% so với 1,2%); thuốc lá (16,8% so với 16,3%); và thực phẩm (1,9%, bằng với mức tăng trong tháng 6), trong đó thực phẩm tươi sống (6,4% so với 5,9%) và các thực phẩm khác (1,2%, không đổi so với tháng 6).
Tỷ lệ lạm phát lõi, không bao gồm giá khu vực công, giá tiêu dùng dễ biến động và các biện pháp thuế, tăng lên 0,9% trong tháng 7 từ 0,8% trong tháng 6.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng giảm 0,1% trong tháng 7 sau khi không thay đổi trong tháng 6. Sự sụt giảm nhẹ này do giá sản phẩm sản xuất giảm 2,8% theo mùa do doanh thu mùa hè, một phần bù đắp bởi sự phục hồi của giá dịch vụ (1,1%), chủ yếu là giá vé máy bay do học sinh bắt đầu nghỉ học. Giá năng lượng tăng với tốc độ nhẹ hơn (0,5% so với 0,9% trong tháng 6) và giá lương thực phục hồi nhẹ (0,1% so với mức giảm 0,2% của tháng 6).
Chỉ số giá tiêu dùng harmonized tăng 2,6% so với năm trước (so với 2,3% trong tháng 6); và giảm 0,1% so với tháng trước.
Đức
Tỷ lệ lạm phát hàng năm của Đức giảm xuống còn 2% trong tháng 7 so với 2,1% của tháng trước và phù hợp với dự báo của thị trường. Lạm phát lương thực chậm lại trong khi giá dịch vụ và năng lượng tăng nhanh hơn.
Trong tháng 7, giá hàng hóa giảm xuống 2,4% từ mức 2,8% trong tháng trước đó, do lạm phát lương thực giảm. Giá tăng đối với báo và tạp chí định kỳ (4,8%), bia (4%) và sản phẩm thuốc lá (3,5%). Tuy nhiên, giá đã giảm đối với điện tử tiêu dùng (giảm 5,5%), thiết bị xử lý thông tin (giảm 4,2%), quần áo (giảm 2%).
Giá thực phẩm và đồ uống không cồn tăng 2,6%, sau khi tăng 3,2% trong tháng 6. Giá tăng với tất cả các loại hàng hóa, đặc biệt là mỡ và dầu ăn (6,4%), trong đó trái cây (5,5%); các sản phẩm từ sữa và trứng (4%), và rau (3,1%).
Lạm phát dịch vụ tăng lên 1,6% trong tháng 7 từ 1,5% trong tháng 6. Áp lực tăng lên đến từ: ngày lễ trọn gói (4,2%); tiền thuê nhà (1,6%); bảo trì và sửa chữa xe cộ (3%) và dịch vụ ăn uống tại các nhà hàng, quán cà phê (2,2%). Trong khi đó, người tiêu dùng trả ít hơn cho vé máy bay (giảm 6,9%).
Giá năng lượng tăng 6,6%, sau khi tăng 6,4% trong tháng 6. Giá tăng chủ yếu là: dầu nóng (28,5%); nhiên liệu động cơ (12%); điện (1%). Ngược lại, giá khí đốt giảm 1,3%.
Trên cơ sở hàng tháng, chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,3% so với mức tăng 0,1% trong tháng 6 và phù hợp với dự báo của thị trường. Giá vé máy bay tăng 4,4%, ngày lễ trọn gói (19,3%) Trong khi đó, giá năng lượng giảm 0,1%, chi phí nhiên liệu động cơ (giảm 0,2%), nhiên liệu diesel (giảm 0,4%). Ngoài ra, giá lương thực giảm 0,5% trong tháng 7, do giá giảm đặc biệt đối với rau quả (giảm 2,2%) và rau (giảm 1,2%). Ngoài ra, giá quần áo giảm 6,9% và giày dép giảm 4,1%.
Chỉ số giá tiêu dùng harmonised tăng 2,1% so với năm trước và 0,4% so với tháng trước.
Singapore
Theo Cơ quan thống kê Singapore, tỷ lệ lạm phát của Singapore là 0,6% trong tháng 7, không đổi so với mức cao 7 tháng của tháng trước và thấp hơn so với dự báo của thị trường là 0,65%. Lạm phát lương thực đã được ổn định trong khi giảm phát nhà ở giảm và giá vận chuyển giảm.
Lạm phát lương thực ổn định ở mức 1,5% trong tháng 7. Trong số thực phẩm không bao gồm dịch vụ ăn uống, chi phí tăng chủ yếu là: bánh mì và ngũ cốc (1,5% so với 2,1%); thịt (0,6% so với 0,5%); cá và hải sản (2,8% so với 3,5%); sữa, phô mai và trứng (1,3% so với 1,8%); dầu và chất béo (3,1% so với 4,1%); đường,bánh kẹo (1,6% và 2,7%); đồ uống không cồn (1,5% so với 1,4%), thức ăn khác (1,2% so với 3,4%), và trái cây (2,6% so với 1,2%). Ngược lại, giá rau tiếp tục giảm 0,2% so với 1,5%. Trong số các dịch vụ cung cấp thực phẩm, lạm phát không thay đổi đối với thực phẩm nhà hàng (1,7%) trong khi lạm phát giảm đối với thực phẩm bán rong bao gồm cả khu ăn uống (1,5% so với 1,6%). Trong khi đó, lạm phát tăng cho cả thức ăn nhanh (0,6% so với 0,1%) và thực phẩm (1,7% so với 0,2%).
Áp lực tăng thêm đến từ văn hóa và giải trí (1,7% so với 1,4%), giáo dục (2,4%, từ 2,9%); y tế (2% so với 2,4%); hàng hóa và dịch vụ khác (0,9% so với 1,2%); đồ dùng gia đình và dịch vụ (0,5% so với 0,9%); giao tiếp (0,2%); quần áo và giày dép (2,3% và 1,5%).
Mặt khác, giá vận tải giảm (0,3%) đặc biệt là chi phí vận tải đường bộ tư nhân (giảm 0,2% so với 0,4%) và vận tải đường bộ công cộng (giảm 1,1% so với 1%). Ngoài ra, giá nhà ở và tiện ích giảm ở mức thấp hơn (giảm 1% so với giảm 1,8%).
Giá tiêu dùng cốt lõi, không bao gồm chi phí chỗ ở và giao thông đường bộ tư nhân, tăng 1,9% trong tháng 7, cao hơn dự báo của thị trường 1,7% và 1,7% của tháng 6.
Trên cơ sở hàng tháng, giá tiêu dùng giảm 0,1% trong tháng 7, ngược lại mức tăng 0,1% một tháng trước đó.
N.Nga
Nguồn: Vitic/Tradingeconomics

  PRINT     BACK

© Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại – Bộ Công Thương ( VITIC)
Giấy phép của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin Điện tử - Bộ Thông tin và Truyền Thông số 56/GP-TTDT

Địa chỉ: Phòng 605, tầng 6, tòa nhà Bộ Công Thương, 655 Phạm Văn Đồng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Điện thoại:(04) 39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312

Email: Asem@vtic.vn; Asemconnectvietnam@gmail.com
Ghi rõ nguồn "AsemconnectVietnam.gov.vn" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25710908097