Thứ tư, 9-7-2025 - 1:29 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Thị trường than toàn cầu tuần 1 tháng 7 năm 2025 

 Thứ ba, 8-7-2025

AsemconnectVietnam - Tuần đầu tháng 7/2025, thị trường than toàn cầu chứng kiến nhiều biến động đáng chú ý khi giá than tại các khu vực trọng điểm như châu Âu, Nam Phi và Trung Quốc biến động mạnh do thời tiết cực đoan, gián đoạn vận chuyển và biến động cung cầu. Trong khi giá than nhiệt tại châu Âu tăng vọt rồi nhanh chóng hạ nhiệt, thị trường châu Á lại chịu ảnh hưởng bởi tồn kho giảm và nhu cầu hồi phục cục bộ.

Tại châu Âu, giá than nhiệt tại châu lục này vượt 109 USD/tấn trong bối cảnh nhiệt độ cao bất thường và tồn kho giảm mạnh tại các cảng ARA. Tuy nhiên, đến cuối phiên giao dịch thứ Sáu (ngày 4/7), giá đã quay đầu giảm, trở lại mức 104–105 USD/tấn như tuần trước.
Tập đoàn điện lực EDF (Pháp) cảnh báo nhiệt độ cao và mực nước sông Rhône xuống thấp có thể làm giảm sản lượng điện hạt nhân, từ đó hỗ trợ giá than. Song, đà tăng không bền vững trước các yếu tố vĩ mô khác.
Giá khí đốt tại trung tâm TTF cũng giảm xuống còn 404,81 USD/1.000 m³ (giảm 18,92 USD/1.000 m³ trong tuần), do nguồn cung ổn định từ Na Uy và lượng mua LNG trong tháng 6 đạt mức cao kỷ lục. Tính đến ngày 2/7, tồn kho khí đốt dưới lòng đất tại châu Âu đã đạt gần 47% công suất tối đa. Trong khi đó, tồn kho than tại các cảng ARA giảm xuống còn 2,87 triệu tấn – mức thấp nhất trong ba năm (giảm 0,30 triệu tấn so với tuần trước).
Tại Nam Phi, giá than nhiệt lượng cao CV 6,000 của Nam Phi vượt mốc 99 USD/tấn trong tuần, hưởng lợi từ đà tăng tại châu Âu. Tuy nhiên, đến cuối tuần, giá cũng quay đầu giảm về mức 94–95 USD/tấn như tuần trước.
Sự cố trật đường ray ngày 30/6 khiến cả hai tuyến đường sắt dẫn đến cảng xuất khẩu Richards Bay (RBCT) bị phong tỏa, làm gián đoạn chuỗi cung ứng và hỗ trợ giá. Dự kiến việc bổ sung hàng tồn kho tại RBCT trước thời gian bảo trì đường sắt (15–26/7) sẽ gặp nhiều khó khăn. Hiện tồn kho tại RBCT chỉ ở mức 3,59 triệu tấn, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 5 triệu tấn trước bảo trì, khiến thị trường lo ngại.
Chi phí vận chuyển than bằng xe tải từ mỏ Witbank đến RBCT đã tăng từ 26,53 USD/tấn lên 27,92–30,72 USD/tấn trong tháng 6, do khoảng 300–400 xe phải tạm ngưng hoạt động vì thị trường ảm đạm. Giá cước được dự báo sẽ tiếp tục tăng nếu giá than tiếp tục phục hồi.
Tại Trung Quốc, giá than nội địa tăng nhẹ, tồn kho giảm. Tại cảng Tần Hoàng Đảo, giá giao than ngay 5.500 NAR tăng nhẹ lên mức 86 USD/tấn nhờ tồn kho giảm. Tập đoàn Shenhua gần đây đã tăng giá mua, khiến các nhà cung cấp lạc quan hơn về triển vọng thị trường.
Tuy nhiên, với mức giá hiện tại, nhiều công ty than vẫn chịu lỗ khoảng 2,8–4,2 USD/tấn. Các nhà cung ứng kỳ vọng các nhà máy điện sẽ tăng cường nhập kho trước cao điểm tiêu thụ vào cuối tháng 7.
Tồn kho tại 9 cảng lớn giảm còn 27,60 triệu tấn (giảm 0,97 triệu tấn), trong khi tồn kho tại 6 nhà máy nhiệt điện ven biển tăng lên 14,33 triệu tấn (+0,43 triệu tấn). Mức tiêu thụ than tăng lên 845.000 tấn/ngày so với 804.000 tấn/ngày tuần trước.
Tại Indonesia, giá than 5.900 GAR của Indonesia giảm xuống 71,5 USD/tấn, trong khi giá 4.200 GAR tăng nhẹ lên 39,5 USD/tấn. Dù nhu cầu từ Ấn Độ yếu và thời tiết bất lợi, giá than Indonesia diễn biến không đồng nhất.
Chính phủ Indonesia đã điều chỉnh giảm chỉ số HBA cho than trung bình và thấp trong nửa đầu tháng 7, trong khi nâng chỉ số cho than chất lượng cao.
Một số nhà cung cấp tuyên bố bất khả kháng trong việc giao hàng sau sự cố sập cầu tại khu vực Lahat (Sumatra) vào ngày 29/6, khiến vận chuyển than qua cầu Muara Lawai bị đình chỉ. Việc này có thể gây chậm trễ xuất khẩu sang Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan và Hàn Quốc.
Tại Úc, giá than nhiệt lượng cao CV 6.000 của Úc giảm xuống dưới 110 USD/tấn sau đợt tăng ngắn hạn hồi tuần trước. Chính phủ Úc công bố dự báo mới với lượng xuất khẩu than năng lượng giảm trong năm tài chính 2025 xuống còn 207 triệu tấn (giảm 7 triệu tấn), 204 triệu tấn vào năm 2026 (giảm 3 triệu tấn) và 200 triệu tấn vào 2027 (giảm 2 triệu tấn).
Giá FOB Newcastle cho than chất lượng cao xuất sang Nhật Bản được dự báo ở mức 119 USD/tấn năm 2026 và 120 USD/tấn năm 2027. Giá trung bình cho than 6.322 kcal/kg GAR dự kiến đạt 107 USD/tấn trong năm 2025 và 109–111 USD/tấn giai đoạn 2026–2027.
Trong khi đó, giá than luyện kim HCC tăng mạnh gần 10 USD/tấn, lên mức 182 USD/tấn do nguồn cung giao ngay từ Úc hạn chế và giá than cốc nội địa Trung Quốc tăng do sản xuất và tồn kho giảm.
Chính phủ Úc cũng hạ dự báo xuất khẩu than luyện kim năm 2025 xuống còn 147 triệu tấn (giảm 8 triệu tấn), năm 2026 còn 160 triệu tấn (giảm 3 triệu tấn) và năm 2027 còn 169 triệu tấn (giảm 4 triệu tấn). Việc điều chỉnh giảm được lý giải bởi thời tiết bất lợi ảnh hưởng đến sản lượng tại Queensland và hoạt động xuất hàng tại cảng. Dự kiến nhu cầu than luyện kim từ Ấn Độ sẽ tiếp tục mạnh mẽ đến hết năm 2025 nhờ tăng trưởng ngành sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và ô tô.
N.Hao
Nguồn: VITIC/CCA Analysis/Thecoalhub
 

  PRINT     BACK

© Bộ Công Thương- Trung tâm Thông tin Công Nghiệp và Thương mại (VITIC)
Giấy phép của Bộ Thông tin và Truyền thông số 115/GP-TTĐT, cấp ngày 03/6/2024.

Địa chỉ: Tòa nhà Bộ Công Thương, số 655 Phạm Văn Đồng, phường Nghĩa Đô, thành phố Hà Nội.

ĐT: (04)39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312


Email: Asemconnectvietnam@gmail.com;

Ghi rõ nguồn "Asemconnectvietnam.gov.vn" khi đăng lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25726243342