Thứ hai, 23-12-2024 - 2:0 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Thị trường ngô thế giới tháng 11/2024 

 Thứ bảy, 30-11-2024

AsemconnectVietnam - Giá ngô tại tất cả các thị trường xuất khẩu chính trên thế giới trong tháng 11/2024 giảm, ngoại trừ giá ngô Brazil tăng so với tháng 10/2024 do áp lực theo mùa từ vụ thu hoạch ở Bắc Bán cầu thúc đẩy nguồn cung xuất khẩu.

Cụ thể, giá ngô Mỹ giảm nhẹ 1 USD/tấn xuống còn 210 USD/tấn khi vụ thu hoạch năm 2024 kết thúc với tốc độ nhanh chóng, hỗ trợ nguồn cung dồi dào của Mỹ. Mặc dù vụ mùa này có sản lượng thấp hơn dự kiến, giá ngô của Ukraine giảm 5 USD/tấn xuống còn 215 USD/tấn trong bối cảnh vụ thu hoạch đang diễn ra. Giá ngô Achentina giảm 3 USD/tấn xuống 208 USD/tấn, phần lớn phản ánh các động thái của các nhà cung cấp khác khi xuất khẩu giảm theo mùa. Ngược lại, giá ngô Brazil tăng 6 USD/tấn lên 219 USD/tấn do nguồn cung xuất khẩu thắt chặt hơn trong bối cảnh nhu cầu trong nước đối với ethanol và thức ăn chăn nuôi mạnh mẽ.
Đối với Mỹ, Báo cáo Ước tính Cung và Cầu Nông nghiệp Thế giới của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo trong niên vụ 2024/25, sản lượng và lượng tồn kho cuối kỳ thấp hơn so với dự báo tháng trước. Sản lượng ngô ước tính là 15,1 tỷ bushels, giảm 60 triệu bushels so với tháng trước do năng suất giảm 0,7 bushels xuống còn 183,1 bushels/mẫu Anh. Diện tích thu hoạch ngũ cốc không đổi ở mức 82,7 triệu mẫu Anh. Tổng lượng sử dụng không đổi ở mức 15 tỷ bushels. Với nguồn cung giảm và không thay đổi về lượng sử dụng, lượng tồn kho ngô cuối kỳ giảm xuống còn 1,9 tỷ bushels. Giá ngô trung bình theo mùa không đổi ở mức 4,1 USD/bushel.
Đáng chú ý, trong năm 2023/24 (tháng 10/2023-tháng 9/2024), Mỹ đã xuất khẩu kỷ lục 24,5 triệu tấn ngô sang Mexico, vượt xa mức 16,8 triệu tấn xuất khẩu sang Mexico 2 năm trước. Hơn nữa, thị phần của Mỹ tại Mexico đạt 99%, mức cao nhất trong gần một thập kỷ. Khối lượng ngô của Mỹ sang Mexico trong năm 2023/24 là khối lượng thương mại một năm lớn nhất đến bất kỳ điểm đến nào trong lịch sử và chiếm hơn 40% tổng lượng ngô xuất khẩu của Mỹ.
Mexico đã gặp khó khăn về sản xuất liên quan đến hạn hán trong năm 2023/24, dẫn đến sản lượng thấp hơn nhiều triệu tấn so với mức trung bình gần đây. Ngược lại, Mỹ đã thu hoạch được một vụ mùa lớn kỷ lục trong năm, giúp làm giảm giá toàn cầu. Những tình hình sản xuất khác nhau này, nhu cầu liên tục về thức ăn chăn nuôi và hoạt động thương mại có lợi theo Hiệp định Mỹ-Mexico-Canada (USMCA) đã thúc đẩy xuất khẩu ngô của Mỹ sang Mexico. Xuất khẩu ngô của Mỹ chủ yếu là ngô vàng, trong khi Mexico chủ yếu sản xuất ngô trắng.
Dự báo nhập khẩu ngô của Mexico năm 2024/25 là 24 triệu tấn. Mặc dù sản lượng ngô của năm hiện tại có cải thiện so với năm trước nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình gần đây. USDA dự báo sản lượng ngô của Mexico là 24,5 triệu tấn, giảm 500.000 tấn so với tháng trước, phản ánh sự sụt giảm kỳ vọng về diện tích ngô mùa đông. Mexico hiện đang xem xét sửa đổi hiến pháp sẽ cấm sử dụng ngô biến đổi gen (GE) để tiêu thụ cho con người hoặc trồng trọt. Đồng thời sẽ yêu cầu hạt ngô GE nhập khẩu cho các mục đích khác, chẳng hạn như thức ăn chăn nuôi. Bất chấp môi trường pháp lý không chắc chắn, hiện tại, nhu cầu ngô của Mexico dự kiến sẽ vẫn mạnh mẽ.
Tại Achentina, Sàn giao dịch ngũ cốc Rosario đã hạ dự báo về vụ ngô của nước này xuống còn khoảng 50 đến 51 triệu tấn, giảm so với ước tính trước đó là 51 đến 52 triệu tấn do độ ẩm thấp.
USDA dự báo sản lượng ngô toàn cầu năm 2024/25 cao hơn do sản lượng của Uganda, Malawi, Belarus, Mozambique, Kenya và Cameroon tăng trong khi sản lượng của Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và EU giảm. Sản lượng của Mexico giảm do kỳ vọng diện tích ngô mùa đông thấp hơn.
Những thay đổi lớn về thương mại toàn cầu bao gồm xuất khẩu ngô thấp hơn của Brazil và Nam Phi và xuất khẩu cao hơn của Myanmar và Uganda. Nhập khẩu ngô giảm đối với Trung Quốc và Malawi nhưng tăng đối với Mexico, Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ và Peru.
Lượng ngô tồn kho cuối kỳ thế giới giảm, chủ yếu do lượng tồn kho của Trung Quốc giảm, ngược lại tồn kho của Mexico, Uganda và Canada tăng. Lượng ngô tồn kho cuối kỳ toàn cầu, ở mức 304,1 triệu tấn, giảm 2,4 triệu tấn so với tháng trước.
Nhu cầu ngô của Philippines tiếp tục tăng chủ yếu do ngành chăn nuôi và gia cầm sử dụng nhiều ngô làm thức ăn chăn nuôi hơn, cũng như sử dụng nhiều hơn cho đồ ăn nhẹ và tinh bột trong công nghiệp. Tuy nhiên, sản lượng ngô ở Philippines không theo kịp nhu cầu tăng. Người sản xuất ngô đã bị cản trở bởi sâu bệnh, bão và thiếu đất trong những năm gần đây. Trong năm 2023/24, sản lượng ngô của Philippines là 8,1 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ năm 2019/20. Do đó, Philippines cần phải nhập khẩu nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu trong nước - đạt 16% tổng nguồn cung trong năm 2023/24, so với 4% trong năm 2019/20.
Kể từ tháng 6/2022, các lệnh hành pháp từ Chính phủ Philippines đã giảm thuế suất đối với ngô nhập khẩu. Ngô nhập khẩu trong hạn ngạch hiện phải chịu mức thuế suất theo giá trị là 5% (so với mức 35% trước đây) và mức thuế suất ngoài hạn ngạch là 15% (so với mức 50% trước đây).
Nghiên cứu từ Bộ Nông nghiệp Philippines năm 2022 cho thấy mức độ mà thuế suất trước đây tác động đến khả năng cạnh tranh của nhà xuất khẩu. Giá bán buôn ngô nhập khẩu năm 2020 từ các nhà xuất khẩu không có thỏa thuận thương mại hiện hành trung bình là 380 USD/tấn, so với 290 USD/tấn đối với nguồn cung trong nước, với mức thuế suất chiếm từ 75 đến 100 USD chi phí. Ngược lại, các thành viên ASEAN (bao gồm Việt Nam và Myanmar) phải chịu mức thuế tối đa là 5% theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), đưa giá nhập khẩu bán buôn của họ lên 285 USD/tấn.
Với việc giảm thuế ngô, tổng lượng nhập khẩu tăng mạnh 56% trong năm 2022/23 và 68% trong năm 2023/24, với các nhà xuất khẩu không thuộc ASEAN tăng khối lượng. Dữ liệu hải quan từ Cơ quan Thống kê Philippines (PSA) cho thấy hầu như tất cả khối lượng đều đến từ các thành viên ASEAN trong năm 2021/22. Trong năm 2022/23, ASEAN đã giảm xuống còn 2/3 thị phần khi Brazil xuất khẩu hơn 200.000 tấn. Đến năm 2023/24, khối lượng của ASEAN chỉ bằng một nửa tổng lượng nhập khẩu, riêng Achentina tăng lên 35%.
USDA dự báo nhập khẩu ngô của Philippines dự kiến đạt 1,5 triệu tấn vào năm 2024/25 (tháng 7/2024-tháng 6/2025), sau khi đạt mức kỷ lục 1,52 triệu tấn vào năm 2023/24. Xuất khẩu ngô thế giới thấp hơn và sản lượng phục hồi nhẹ đang kìm hãm tăng trưởng.
Nhu cầu ngô của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn cao. Theo dữ liệu của Commodity Insights, trong 9 tháng đầu năm 2024, nước này đã nhập khẩu 3,2 triệu tấn ngô, tăng so với mức 1,9 triệu tấn cùng kỳ năm trước và trong đó 1,6 triệu tấn đến từ Ukraine, chiếm hơn 50% tổng lượng ngô nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ.
USDA ước tính sản lượng ngô của Thổ Nhĩ Kỳ đạt 7 triệu tấn vào năm 2024, giảm 1,4 triệu tấn so với năm 2023. Tiêu thụ trong nước dự kiến đạt 8,4 triệu tấn, chủ yếu do tiêu thụ trong ngành thức ăn chăn nuôi cao.
Chính phủ đã giảm thuế nhập khẩu ngô từ 130% xuống 5% cho 1 triệu tấn từ ngày 10/10 đến ngày 31/12/2024. Chính sách này nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh triển vọng sản xuất giảm trong năm tiếp thị 2024/25. Thuế nhập khẩu thấp hơn đã kích thích nhu cầu, với nhiều nhà nhập khẩu tận dụng mức thuế quan giảm để đảm bảo hàng hóa. Tuy nhiên, với vụ mùa mới đến thị trường vào tháng 11, giá trong nước đã giảm, khiến các nhà xuất khẩu phải hạ giá chào hàng mặc dù thuế quan đã giảm. Sau khi lãi suất tăng mạnh, giá xuất khẩu tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm và không còn cạnh tranh được với giá trong nước.
Vào những ngày đầu của vụ mùa mới của Ukraine, bắt đầu vào tháng 10/2024, giá ban đầu tăng do nhu cầu mạnh từ Thổ Nhĩ Kỳ, dẫn đến mức cao nhất trong 16 tháng đối với ngô Biển Đen. Tuy nhiên, giá bắt đầu giảm khiến xuất khẩu ngô Ukraine vào Thổ Nhĩ Kỳ thấp. Khi nhu cầu và giá ở Thổ Nhĩ Kỳ giảm, thị trường ngô Ukraine vẫn ở mức thấp.
Ấn Độ có thể nhập khẩu khoảng 1 triệu tấn ngô không biến đổi gen từ Myanmar để đáp ứng nhu cầu từ ngành công nghiệp ethanol đang tăng cao.
Vào tháng 2/2024, chính phủ Ấn Độ đã triển khai các kế hoạch theo đó hai cơ quan chính phủ - Liên đoàn tiếp thị hợp tác xã nông nghiệp quốc gia Ấn Độ và Liên đoàn người tiêu dùng hợp tác xã quốc gia Ấn Độ - sẽ ký các thỏa thuận với các nhà máy chưng cất ethanol để cung cấp ngô với giá hỗ trợ nhằm giảm sự phụ thuộc vào đường. Tuy nhiên, động thái này đã dẫn đến giá ngô trong nước tăng mạnh, khiến những người chăn nuôi gia cầm phải vất vả để mua thức ăn chăn nuôi.
Myanmar là lựa chọn chính để nhập khẩu ngô không biến đổi gen cho Ấn Độ vì nước này miễn thuế. Myanmar được coi là quốc gia kém phát triển nhất, trái ngược với Ukraine, nơi các nhà xuất khẩu Ấn Độ phải mua ngô với mức thuế nhập khẩu 15% theo hạn ngạch thuế quan là 500.000 tấn cho năm tài chính 2023/24 (tháng 4/2023-tháng 3/2024). Thông thường, Ấn Độ đánh thuế nhập khẩu 60% đối với ngô.
Ngoài nhu cầu tăng từ ngành công nghiệp ethanol, còn có những lo ngại về chất lượng đối với vụ mùa ở miền Nam Ấn Độ do mưa quá nhiều trong mùa gió mùa từ tháng 6 đến tháng 9/2024.
Ngành công nghiệp gia cầm và tinh bột của Ấn Độ là những ngành tiêu thụ lớn nhất sản lượng ngô của đất nước, sử dụng 60%-70% tổng sản lượng ngô của Ấn Độ. Tuy nhiên, với việc các nhà máy chưng cất ethanol mua ngô, nhu cầu đã tăng vào năm 2024. Nhu cầu tăng từ ngành công nghiệp ethanol đã tạo ra tình trạng thiếu hụt 5 triệu tấn.
Lượng ngô nhập khẩu của Ấn Độ trong năm tài chính 2023/24 tăng mạnh do nhu cầu trong nước tăng. Trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 8/2024, Ấn Độ đã nhập khẩu 644.334 tấn ngô, so với tổng lượng mua là 126.624 tấn trong năm tài chính 2023/24.
N.Nga
Nguồn: VITIC/USDA/Reuters/Spglobal
 

  PRINT     BACK

© Bộ Công Thương- Trung tâm Thông tin Công Nghiệp và Thương mại (VITIC)

Giấy phép của Bộ Thông tin và Truyền thông số 115/GP-TTĐT, cấp ngày 03/6/2024.

Địa chỉ: Tòa nhà Bộ Công Thương, số 655, Phạm Văn Đồng, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Phòng 605, Tầng 6.

ĐT: (04)39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312


Email: Asemconnectvietnam@gmail.com;

Ghi rõ nguồn "Asemconnectvietnam.gov.vn" khi đăng lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25716656420