Xuất khẩu gạo 6 tháng năm 2023 và dự báo
Thứ sáu, 28-7-2023AsemconnectVietnam - 6 tháng năm 2023 cả nước xuất khẩu gần 4,24 triệu tấn gạo, tương đương gần 2,26 tỷ USD, tăng 21,3% về khối lượng, tăng 32,2% về kim ngạch so với 6 tháng năm 2022.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2023 cả nước xuất khẩu 617.998 tấn gạo, tương đương 340,77 triệu USD, giá trung bình 551,4 USD/tấn, giảm 14,7% về lượng và giảm 12,8% về kim ngạch nhưng tăng nhẹ 2,3% về giá so với tháng 5/2023; so với tháng 6/2022 cũng giảm 14,9% về lượng, giảm 3,9% kim ngạch nhưng tăng 13% về giá.
Trong tháng 6/2023 xuất khẩu gạo sang thị trường chủ đạo Philippines tiếp tục giảm mạnh 32,3% về lượng và giảm 31,9% về kim ngạch nhưng tăng nhẹ 0,6% về giá so với tháng 5/2023, đạt 166.421 tấn, tương đương 85,28 triệu USD, giá 512,5 USD/tấn; và cũng giảm mạnh 53,2% về lượng, giảm 49,9% kim ngạch, nhưng tăng 7,2% về giá so với tháng 6/2022. Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tháng 6/2023 cũng giảm mạnh 64,3% về lượng và giảm 63,2% kim ngạch so với tháng 5/2023, đạt 44.918 tấn, tương đương 26,47 triệu USD; so với tháng 6/2022 cũng giảm 10,4% về lượng, nhưng tăng 6,1% kim ngạch.
Tính chung cả 6 tháng năm 2023 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt gần 4,24 triệu tấn, tương đương gần 2,26 tỷ USD, tăng 21,3% về khối lượng, tăng 32,2% về kim ngạch so với 6 tháng năm 2022, giá trung bình đạt 532,6 USD/tấn, tăng 9%.
Các thị trường xuất khẩu gạo đứng đầu của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023
Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và chiếm 38% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt gần 1,7 triệu tấn, tương đương 857,68 triệu USD, giá trung bình 504,9 USD/tấn, tăng 4,6% về lượng, tăng 13% về kim ngạch và tăng 8,1% về giá so với 6 tháng năm 2022.
Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm 16% trong tổng lượng và chiếm 17,3% trong tổng kim ngạch, đạt 677.387 tấn, tương đương 390,62 triệu USD, giá trung bình 576,7 USD/tấn, tăng mạnh 54,4% về lượng và tăng 71,2% kim ngạch; giá tăng 10,8% so với 6 tháng năm 2022.
Thị trường Indonesia đứng thứ 3 đạt 492.801 tấn, tương đương 244,06 triệu USD, giá 495,3 USD/tấn, tăng mạnh 1.388% về lượng, tăng 1.404% kim ngạch và tăng nhẹ 1,1% về giá so với 6 tháng năm 2022, chiếm 11,6% trong tổng lượng và chiếm 10,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt 3,14 triệu tấn, tương đương 1,63 tỷ USD, tăng 32,7% về lượng, tăng 43,7% kim ngạch. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 280.588 tấn, tương đương 145,75 triệu USD, tăng 3% về lượng, tăng 8,7% kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường Đông Nam Á đạt 2,45 triệu tấn, tương đương 1,23 tỷ USD, tăng 28,3% về lượng, tăng 37,8% kim ngạch.
Ngành lúa gạo cần thêm hỗ trợ để chuyển từ số lượng sang chất lượng
Dù xuất khẩu gạo nửa cuối năm 2023 được dự báo có triển vọng tươi sáng, nhưng ngành gạo vẫn cần nhiều hỗ trợ hơn nữa để chuyển từ số lượng sang chất lượng nhằm nắm bắt cơ hội thị trường toàn cầu.
Khoảng 6,6 triệu tấn gạo xay xát tại ĐBSCL, trung tâm sản xuất lúa gạo lớn nhất của Việt Nam, được lên kế hoạch xuất khẩu vào năm 2023, bao gồm 3 triệu tấn gạo chất lượng cao, 2,1 triệu tấn gạo thơm và đặc sản, 0,9 triệu tấn gạo chất lượng trung bình và 0,6 triệu tấn gạo nếp.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu gạo ra nước ngoài khoảng 4,27 triệu tấn, trị giá 2,3 tỷ USD, tăng 22,2% về lượng và tăng 34,7% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Giá xuất khẩu trung bình 539 USD/tấn, tăng 10,2%, theo Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển Thị trường thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD).
Hiện đang có những điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu gạo, đặc biệt là trong nửa cuối năm 2023, khi các thị trường lớn như Trung Quốc, Philippines và Malaysia vẫn đang thu mua lượng lớn gạo.
Tuy nhiên, dư địa để đẩy mạnh xuất khẩu không còn nhiều. Việt Nam cũng đang đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng để chuyển diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây trồng khác. Trước thực trạng này, việc thúc đẩy chuỗi giá trị lúa gạo và chế biến để nâng cao giá trị sản phẩm là điều bắt buộc để nâng cao kim ngạch xuất khẩu.
Đại diện Tập đoàn Lộc Trời cho rằng, để nâng cao hơn nữa giá trị hạt gạo, ngoài giống, kỹ thuật canh tác, cần quan tâm đến chế biến và thị trường xuất khẩu. Các nhà nhập khẩu có nhu cầu cao đối với gạo chế biến sâu, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ vốn để đầu tư vào bước này. Trong khi đó, khâu truy xuất nguồn gốc yếu kém cũng dẫn đến giá thành thấp.
Về xây dựng thương hiệu, gạo mang thương hiệu Lộc Trời có giá lên tới 4.000 USD/tấn tại EU trong khi gạo bình thường được bán khoảng 800 - 900 USD/tấn. Giá chênh lệch được cho là do thiếu vốn phát triển sản xuất và tích trữ.
Ngành cũng thiếu thông tin về thị trường. Với thông tin đầy đủ và cập nhật, Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội, đại diện Lộc Trời nói thêm.
Ông Trương Sỹ Bá, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Tân Long chỉ ra những tồn tại trong bảo quản sau thu hoạch, trong đó lưu ý tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch còn cao, khoảng 10 - 30% (tùy điều kiện thời tiết).
Ngoài ra, ĐBSCL cũng đang đối mặt với những điểm yếu liên quan đến logistics. Gạo phải được phơi chậm nhất trong vòng 5 - 7 giờ sau khi thu hoạch để đảm bảo chất lượng tốt. Tuy nhiên, do vận chuyển kém và lâu, sản phẩm có khi bị khô sau 24 giờ nên khó đảm bảo chất lượng.
Ông Bá cho rằng hậu cần là rất quan trọng để giảm tổn thất sau thu hoạch.
Bộ NN&PTNT đang đẩy mạnh xây dựng Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha đất chuyên trồng lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL.
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN&PTNT, với kế hoạch này, Việt Nam sẽ là quốc gia đầu tiên gắn kết sản xuất lúa gạo với tăng trưởng xanh.
Ông Bá cho rằng kế hoạch này sẽ giúp ngành nâng cao năng suất, chất lượng lúa gạo và có giá thành sản xuất cạnh tranh.
Về phần mình, bà Bùi Thị Thanh Tâm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng, Việt Nam không nên đợi các nước đưa ra yêu cầu mà cần chủ động xây dựng chất lượng, thương hiệu.
Đề cập đến vấn đề vốn, bà cho biết các ngân hàng đã hỗ trợ khá nhiều cho doanh nghiệp gạo nhưng doanh nghiệp vẫn rất khó tiếp cận vốn ngân hàng do tài sản của họ không đủ lớn để thế chấp.
Hiệp hội kêu gọi tăng cường cho doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn trong thời kỳ thu hoạch, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp để thu mua lúa kịp thời phục vụ sản xuất.
CK
Nguồn: VITIC/Vietnamplus.vn
Xuất khẩu tôm sang thị trường Hoa Kỳ kỳ vọng sớm khởi sắc trong năm 2024
Xuất khẩu gỗ đón đơn hàng trở lại
Tình hình xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2023
Nhận định thị trường xuất khẩu nông lâm sản 6 tháng cuối năm 2023
Xuất khẩu cà phê sang Indonesia, Algeria tăng trưởng 3 con số
"Điểm danh" các địa phương có kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD
Tăng 5%, xuất khẩu hàng hóa đang khởi sắc trở lại
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam duy trì ở gần mức cao nhất trong 2 năm
Tháng 6/2023, Hoa Kỳ vươn lên trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất hồ tiêu Việt Nam
Nửa đầu năm 2023, Việt Nam chi 3,4 tỷ USD nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi
Triển vọng xuất khẩu gạo 6 tháng cuối năm 2023 được đánh giá tương đối tích cực
Xuất khẩu hồ tiêu vẫn thiếu vắng các tín hiệu tích cực
CPI Việt Nam và CPI của Hà Nội, TP.HCM nửa đầu năm 2023
Bội thu đơn hàng, xuất khẩu rau quả sẽ cán mốc 5 tỷ USD trong năm 2023
Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam tháng 3 ...
3 tháng đầu năm nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 1,79 triệu tấn, đạt giá trị 952 triệu USD, giảm 19,3% về khối lượng nhưng tăng ...Tăng trưởng xuất khẩu dệt may tiếp tục giảm
Tháng 3/2023, xuất khẩu cà phê sang Indonesia, Nga, ...