Thị trường lúa mì thế giới tháng 2/2025
Thứ sáu, 28-2-2025
AsemconnectVietnam - Giá lúa thế giới tháng 2/2025 tăng nhẹ so với tháng 1/2025.
Cụ thể, giá lúa mì Mỹ tăng 16 USD/tấn lên 268 USD/tấn, giá lúa mì Canada tăng 5 USD/tấn lên 272 USD/tấn với tốc độ xuất khẩu ổn định. Giá lúa mì Úc tăng 5 USD/tấn lên 267 USD/tấn với nhu cầu mạnh hơn từ một số thị trường chính của Châu Á mặc dù nhu cầu yếu từ Trung Quốc. Giá lúa mì EU không thay đổi ở mức 244 USD/tấn. Giá lúa mì Nga tăng 4 USD/tấn lên 243 USD/tấn do nguồn cung lúa mì trong nước thắt chặt và các nhà xuất khẩu chuẩn bị cho việc thực hiện hạn ngạch vào giữa tháng 2. Giá lúa mì của Achentina vẫn là giá cạnh tranh nhất, mặc dù tăng 4 USD/tấn lên 233 USD/tấn. Mùa cao điểm xuất khẩu của Achentina vẫn tiếp tục khi nguồn cung vụ mùa mới dồi dào sau vụ thu hoạch gần đây.
Đối với Mỹ, USDA dự báo trong niên vụ 2024/25, nhu cầu sử dụng trong nước tăng nhẹ dẫn đến lượng dự trữ cuối kỳ thấp hơn. Lượng sử dụng lúa mì làm thực phẩm tăng 4 triệu bushels lên 970 triệu bushels, vì lượng bột mì xay trong quý IV/2024 tăng 2% so với năm trước. Lượng dự trữ cuối kỳ dự kiến giảm 4 triệu bushels xuống 794 triệu bushels nhưng cao hơn 14% so với năm trước. Giá lúa mì trung bình theo mùa không đổi ở mức 5,55 USD/bushel.
Tại Nga, Bộ Nông nghiệp nước này đã công bố hạn ngạch xuất khẩu lúa mì từ ngày 15/2 đến ngày 30/6/2025 với lượng xuất khẩu lúa mì ở mức 10,6 triệu tấn so với 28 triệu tấn tổng lượng ngũ cốc xuất khẩu năm ngoái. Hạn ngạch hiện tại chỉ áp dụng cho lúa mì, trong khi không có hạn ngạch nào cho lúa mạch, ngô và lúa mạch đen. Hạn ngạch xuất khẩu lúa mì của Nga là một phần trong động thái thắt chặt kiểm soát đối với lĩnh vực này, sau nỗi lo lạm phát trong nước và thuế xuất khẩu của chính phủ.
Nga dự kiến sẽ xuất khẩu 44 triệu tấn lúa mì, giảm so với mức 54,7 triệu tấn cùng kỳ năm ngoái, với sản lượng thấp hơn ở mức 81,6 triệu tấn, giảm so với mức 90,5 triệu tấn cùng kỳ năm ngoái khi vụ mùa bị ảnh hưởng bởi sương giá và hạn hán vào đầu tháng 5/2024.
Trong khi đó, USDA dự báo xuất khẩu của Achentina trong năm 2024/25 tăng 40% lên 11,5 triệu tấn nhờ . Một yếu tố chính thúc đẩy xuất khẩu là sự phục hồi liên tục về sản lượng sau năm hạn hán trong năm marketing 2022/23, với vụ thu hoạch năm 2024/25 tăng gần 12% so với năm trước lên 17,7 triệu tấn. Ngoài ra, Achentina có lượng hàng tồn kho dồi dào vì các nhà sản xuất giữ nguồn cung với hy vọng chính phủ sẽ có chính sách thuận lợi hơn.
Vào ngày 27/1/2025, Achentina đã hạ thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng chính cho đến ngày 30/6/2025. Thuế xuất khẩu lúa mì đã được giảm từ 12% xuống 9,5%, tiếp tục hỗ trợ xuất khẩu.
Theo số liệu của Viện Thống kê Quốc gia Achentina, xuất khẩu lúa mì tháng 12/2024 là 1,3 triệu tấn và dữ liệu cảng cho thấy xuất khẩu lúa mì tháng 1/2025 là 1,9 triệu tấn.
Thị trường xuất khẩu chính của Achentina là Brazil, chiếm hơn 50% lượng lúa mì xuất khẩu của nước này trong năm 2023/24. Tuy nhiên, trong vài tháng đầu tiên của năm tiếp thị hiện tại, xuất khẩu đang mở rộng sang các khu vực mới như Châu Phi, Nam Á và Đông Nam Á, mặc dù nước này sẽ sớm phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các mặt hàng xuất khẩu của Úc. Với nguồn cung tăng và giá xuất khẩu thấp hơn, giá xuất khẩu lúa mì của Achentina hiện đang cạnh tranh nhất trong số các nước xuất khẩu lớn.
Về triển vọng lúa mì toàn cầu trong năm 2024/25, USDA dự báo nguồn cung tăng nhẹ và mức tiêu thụ cao hơn nhưng thương mại và lượng dự trữ cuối kỳ thấp hơn.
Nguồn cung tăng 0,6 triệu tấn lên 1.061,3 triệu tấn, chủ yếu là do sản lượng cao hơn của Kazakhstan và Achentina. Lượng tiêu thụ toàn cầu tăng 1,8 triệu tấn lên 803,7 triệu tấn do lượng thức ăn chăn nuôi và cho các mục đích khác cao hơn của EU, Kazakhstan, Thái Lan và Ukraine.
Thương mại thế giới giảm 3 triệu tấn xuống còn 209 triệu tấn do xuất khẩu của EU, Mexico, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine giảm. Nhập khẩu của Trung Quốc giảm 2,5 triệu tấn xuống còn 8 triệu tấn do tốc độ nhập khẩu tiếp tục chậm. Đây sẽ là mức nhập khẩu thấp nhất trong năm năm của Trung Quốc. Trung Quốc là nước nhập khẩu lúa mì hàng đầu thế giới vào năm ngoái với 13,6 triệu tấn.
Dự kiến lượng hàng tồn kho cuối năm 2024/25 giảm 1,3 triệu tấn xuống còn 257,6 triệu tấn, do mức giảm của Trung Quốc chỉ được bù đắp một phần bởi mức tăng của Nga, Kazakhstan và Ukraine.
Nhập khẩu lúa mì toàn cầu có khả năng giảm trong năm nay do tăng trưởng kinh tế chậm lại ở những nước nhập khẩu lớn, đồng đô la Mỹ mạnh hơn và sản lượng ngũ cốc địa phương cao hơn đã hạn chế việc mua ngũ cốc, gây áp lực lên giá mặc dù lượng hàng tồn kho trên thế giới đang giảm xuống mức thấp nhất trong chín năm.
Tuy nhiên, giá ngũ cốc được hỗ trợ bởi những lo ngại về thời tiết bất lợi ở khu vực Biển Đen, khu vực xuất khẩu lớn nhất thế giới, sản lượng của Ấn Độ và Mỹ sẽ hạn chế. Trong khi đó, lượng nhập khẩu thấp hơn của Trung Quốc sẽ gây tổn hại cho những người nông dân Úc vừa thu hoạch xong một vụ mùa gần đạt kỷ lục và đã phụ thuộc vào nhu cầu của Trung Quốc trong những năm gần đây.
Lượng tiêu thụ lúa mì cũng có thể giảm ở những nước nhập khẩu lớn do tăng trưởng thấp hơn, với nền kinh tế Trung Quốc dự kiến sẽ chậm lại vào năm 2025, trong khi tăng trưởng của Indonesia đang trì trệ và GDP của Ai Cập trong năm 2023/24 tăng trưởng ít hơn một năm trước đó.
Chi phí nhập khẩu lúa mì nước ngoài đã tăng hoặc giữ nguyên mặc dù giá quốc tế chạm mức thấp nhất trong bốn năm vào năm 2024 vì nhiều loại tiền tệ của thị trường mới nổi đã giảm so với đô la Mỹ.
Nhân dân tệ của Trung Quốc đã bị suy yếu do tranh chấp thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc và đồng rupiah IDR của Indonesia và đồng bảng Anh EGP của Ai Cập đang ở mức gần mức thấp nhất so với đồng bạc xanh.
Trung Quốc dự kiến sẽ mua ít hơn một nửa khối lượng của năm 2024 trong sáu tháng đầu năm 2025 do sản lượng trong nước cao hơn. Theo ước tính của USDA, sản lượng lúa mì của Trung Quốc dự kiến sẽ tăng 2,6% tính đến tháng 6/2025 so với cùng kỳ năm trước. Lượng nhập khẩu trong giai đoạn này có thể giảm 37% so với cùng kỳ năm trước xuống còn 8 triệu tấn. Lượng nhập khẩu giảm diễn ra trong bối cảnh kho dự trữ toàn cầu thắt chặt, USDA dự kiến lượng hàng tồn kho sẽ giảm xuống mức thấp nhất trong chín năm vào cuối tháng 6/2025.
Indonesia - nước mua lúa mì lớn thứ hai thế giới, nhu cầu tăng trưởng có khả năng chậm lại. Sản lượng gạo của Indonesia dự kiến sẽ phục hồi trong năm nay sau khi hiệu ứng thời tiết El Nino làm cạn kiệt vụ mùa năm ngoái, với việc chính phủ dự kiến sản lượng sẽ tăng lên 32,8 triệu tấn, từ 30,62 triệu tấn vào năm 2024. Điều đó đang giúp các nhà chế biến thực phẩm chuyển đổi trở lại sang bột gạo sản xuất trong nước từ lúa mì nhập khẩu. Ngoài ra, đồng rupiah đang gặp khó khăn cũng đang kìm hãm lượng mua lúa mì.
Ai Cập - nước nhập khẩu lớn thứ ba thế giới, có thể sẽ giảm nhập khẩu trong năm nay. Người mua ngũ cốc nhà nước Mostakbal Misr đã mua 1,267 triệu tấn vào cuối tháng 12/2024, đủ để cung cấp cho cả nước cho đến tháng 6/2025. Tuy nhiên, họ đã mua thêm khoảng 250.000 tấn vào tháng 1/2025. Ai Cập đang phải chịu những vấn đề kinh tế nghiêm trọng với mức tăng trưởng thấp và đất nước cần tài trợ từ các nhà tài trợ Ả Rập để hỗ trợ mua lúa mì.
Iraq - nước mua lớn ở Trung Đông, vào tháng 10/2024 đã thông báo sẽ dừng nhập khẩu lúa mì cho chương trình trợ cấp của mình vì vụ thu hoạch bội thu đã khiến 1,5 triệu tấn dư thừa.
N.Nga
Nguồn: VITIC/USDA/Reuters/Spglobal
Thị trường ngô thế giới tháng 2/2025
WSD: Giá thép cán tại EU sẽ tăng trong quý 2/2025
Nhập khẩu thép cuộn của Mỹ tăng vọt trong tháng 12/2024
Nhập khẩu sản phẩm thép dẹt của Brazil tăng trong tháng 1/2025
Giá phân bón thế giới tháng 2/2025 tiếp tục tăng
Xuất khẩu lúa mì của Achentina tăng với giá cả cạnh tranh
Nhập khẩu thép tấm của Đài Loan tăng 15% trong tháng 1/2025
Nhập khẩu phế liệu của Nhật Bản tăng trong năm 2024
Ukraine tiết lộ chi tiết dự thảo thỏa thuận khoáng sản với Mỹ
Thị trường hàng hóa thế giới chưa thoát khỏi sắc đỏ
Trung Quốc trong vòng xoáy thuế thép và nhôm của Mỹ
Nhập khẩu phế liệu sắt của Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2024 tăng 6,7%
Giá gạo Ấn Độ vẫn gần mức thấp nhất trong 19 tháng
Thị trường phế liệu toàn cầu tuần 3 tháng 2/2025