Thứ năm, 21-11-2024 - 19:13 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Thị trường kim loại thế giới ngày 19/11: Giá quặng sắt tăng lên mức 100 USD/tấn 

 Thứ ba, 19-11-2024

AsemconnectVietnam - Chốt phiên giao dịch ngày 18/11 giá vàng, giá bạc, giá bạch kim, giá palladium, giá đồng, giá chì, giá kẽm, giá niken, giá thiếc, giá quặng sắt tăng, trong khi giá nhôm giảm.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng mạnh trong phiên giao dịch ngày 18/11 sau 6 ngày giảm liên tiếp, nhờ đà tăng của đồng USD chững lại trong khi bất ổn từ cuộc xung đột Nga - Ukraine đã nhen nhóm nhu cầu đối với tài sản trú ẩn an toàn.
Chốt phiên giao dịch ngày 18/11, giá vàng giao ngay tăng 1,8% lên 2.608,19 USD/ounce, rời khỏi mức thấp nhất trong hai tháng xác lập vào thứ Năm tuần trước (14/11). Giá vàng giao sau tăng 1,7% lên 2.614,6 USD.
Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cấp cao tại RJO Futures, cho biết sự phục hồi của vàng một phần là do Tổng thống Biden bật đèn xanh cho Ukraine sử dụng tên lửa tầm xa sẽ tiếp cận sâu hơn lãnh thổ Nga.
Vàng, được coi là khoản đầu tư an toàn trong thời kỳ bất ổn kinh tế và địa chính trị, đã ghi nhận mức giảm hàng tuần mạnh nhất trong hơn ba năm vào tuần trước do mức thuế đề xuất của Tổng thống đắc cử Trump được coi là động lực tiềm ẩn gây ra lạm phát - yếu tố có thể khiến tốc độ hạ lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) phải chậm lại.
Điều này lại thúc đẩy chỉ số USD Index giao dịch ở mức cao nhất trong một năm hôm 14/11. Tuy nhiên, đồng bạc xanh đã giảm 0,4% vào đầu tuần này sau khi tăng 1,6% vào tuần trước.
Đồng USD yếu hơn giúp vàng trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Ông Pavilonis cũng nói thêm rằng cho dù Fed có giảm lãi suất hay không, về mặt kỹ thuật, vàng có vẻ muốn quay trở lại gần mức 2.700 USD xác lập trước đó.
Ngân hàng trung ương Mỹ được nhiều người dự đoán sẽ thực hiện đợt giảm lãi suất thứ ba vào tháng 12, mặc dù dữ liệu gần đây cho thấy tiến trình đưa lạm phát trở lại mục tiêu 2% đã bị đình trệ. Ít nhất bảy quan chức Fed dự kiến sẽ phát biểu trong tuần này.
Lãi suất cao hơn, khiến các tài sản có lãi suất bằng 0 như vàng kém hấp dẫn hơn, có thể gây thêm áp lực cho kim loại này.
“Mục tiêu tiếp theo của xu hướng tăng giá là tạo ra mức đóng cửa trên ngưỡng kháng cự vững chắc ở 2.650 USD”, ông Kinesis Money cho biết.
Trên các thị trường kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 2,8% lên 31,05 USD/ounce, giá bạch kim tăng 2,8% ở mức 964,87 USD và giá palladium tăng 5,3% lên 1.001,29 USD.
Trên thị trường kim loại màu, giá đồng phục hồi vào ngày 18/11 khi đồng USD yếu đi, nhưng đà tăng bị hạn chế do sự không chắc chắn về thuế quan mà Mỹ có thể áp dụng dưới thời Tổng thống Trump và các biện pháp kích thích của Trung Quốc.
Trong khi đó, giá nhôm giảm khi thị trường tiếp nhận tin tức về việc Trung Quốc hủy bỏ các khoản hoàn thuế xuất khẩu.
Trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng kỳ hạn ba tháng tăng 0,8% lên 9.070 USD/tấn, giảm 11% từ mức cao nhất trong bốn tháng vào ngày 30 tháng 9.
Chỉ số USD đã giảm vào ngày 18/11 - sau khi chạm mức cao kỷ lục một năm vào thứ Sáu. Đồng USD giảm khiến hàng hóa được định giá bằng USD trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Các nhà phân tích của Citi đã điều chỉnh giảm dự báo giá đồng của họ xuống còn 8.500 USD/tấn trong vòng ba tháng, từ mức 9.500 USD trước đó, do khả năng tăng thuế quan thương mại của Mỹ và các biện pháp kích thích của Trung Quốc yếu hơn dự kiến cho đến nay.
CRU dự kiến giá đồng sẽ phục hồi lên 10.000 USD vào cuối tháng 3/2025 và có khả năng đạt 15.000 USD vào năm 2029, được hỗ trợ bởi nhu cầu chuyển đổi năng lượng và tình trạng khan hiếm nguồn cung của mỏ.
Ngược lại, giá nhôm giảm 1,4% xuống còn 2.613 USD/tấn sau khi tăng 5,3% vào thứ Sáu sau thông báo của Trung Quốc rằng họ sẽ hủy bỏ khoản hoàn thuế 13% đối với xuất khẩu các sản phẩm nhôm.
Mặc dù động thái này có khả năng làm giảm xuất khẩu nhôm bán chế tạo, Citi cho biết trong một lưu ý rằng họ vẫn giữ nguyên mục tiêu giá ba tháng là 2.600 USD, cho biết xu hướng tăng giá có thể biến mất.
Trên thị trường kim loại màu khác, giá chì CMPB3 tăng 1,6% lên 1.989 USD/tấn, mặc dù lượng hàng tồn kho của LME tăng 49.500 tấn hoặc 27% lên 234.725. Giá kẽm CMZN3 tăng 0,1% lên 2.951 USD/tấn, giá niken CMNI3 tăng 1,1% lên 15.710 USD và thiếc CMSN3 tăng 0,8% lên 28.965 USD.
Thị trường sắt thép: Giá quặng sắt tăng lên mức 100 USD/tấn vào ngày 18/11, do được hỗ trợ bởi nhu cầu trong ngắn hạn vững chắc và khơi dậy hy vọng về các biện pháp kích thích kinh tế hơn nữa từ quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới - Trung Quốc.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 1,87% lên 761 nhân dân tệ (105,08 USD)/tấn.
Trên Sàn giao dịch Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 2,78% lên 99,4 USD/tấn - sau khi chạm 100,3 USD/tấn vào đầu phiên giao dịch.
Dữ liệu cho thấy đầu tư vào bất động sản ở Trung Quốc đã giảm 10,3% trong 10 tháng đầu năm, trong khi giá nhà mới trong tháng 10 ghi nhận mức giảm lớn nhất trong hơn 9 năm.
Bộ Tài chính Trung Quốc gần đây đã công bố các ưu đãi thuế cho các giao dịch nhà đất nhằm hỗ trợ lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn, nhưng động thái này không thúc đẩy sự lạc quan của các nhà đầu tư.
Về phía cung, ANZ báo cáo rằng lượng quặng sắt từ cảng chủ chốt của Australia, Port Holland, đã đạt 45,6 triệu tấn trong tháng 10, đưa tổng lượng từ đầu năm đến nay lên 472,3 triệu tấn, mức cao nhất trong 4 năm.
Trong khi đó, một báo cáo ngành cho thấy lượng tồn kho quặng sắt tại các cảng Trung Quốc đang tăng lên, được thúc đẩy bởi việc tái tích trữ thụ động từ các thương nhân bên bờ cảng.
Sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày của các nhà sản xuất thép Trung Quốc tính đến ngày 15/11 đã tăng 0,8% so với tuần trước lên 2,36 triệu tấn, mức cao nhất kể từ đầu tháng 8, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
N. Hao
Nguồn: VITIC
 

  PRINT     BACK

© Bộ Công Thương- Trung tâm Thông tin Công Nghiệp và Thương mại (VITIC)

Giấy phép của Bộ Thông tin và Truyền thông số 115/GP-TTĐT, cấp ngày 03/6/2024.

Địa chỉ: Tòa nhà Bộ Công Thương, số 655, Phạm Văn Đồng, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Phòng 605, Tầng 6.

ĐT: (04)39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312


Email: Asemconnectvietnam@gmail.com;

Ghi rõ nguồn "Asemconnectvietnam.gov.vn" khi đăng lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25715917577