Chủ nhật, 24-11-2024 - 17:8 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Thị trường lúa mì thế giới tháng 10/2024 

 Thứ năm, 31-10-2024

AsemconnectVietnam - Giá lúa mì thế giới tháng 10/2024 tăng ở hầu hết các nước xuất khẩu lớn, ngoại trừ giá lúa mì của Achentina giảm do lo ngại về việc trồng lúa mì mùa đông ở Bắc bán cầu, đặc biệt là do hạn hán ở Nga.

Cụ thể, giá lúa mì EU tăng 14 USD/tấn lên 254 USD/tấn do nguồn cung thắt chặt với ước tính sản lượng thấp hơn. Giá lúa mì Nga cũng tăng 14 USD/tấn lên 232 USD/tấn do nguồn cung giảm, trong khi tình trạng ẩm ướt cản trở vụ thu hoạch lúa mì xuân và tình trạng khô hạn hạn chế việc trồng lúa mì mùa đông vụ 2025/26. Giá lúa mì Úc tăng 11 USD/tấn lên 275 USD/tấn do lượng mưa hạn chế vào tháng 9/2024. Giá lúa mì Canada tăng 9 USD/tấn lên 278 USD/tấn khi vụ thu hoạch lúa mì xuân của nước này sắp hoàn thành. Giá lúa mì Mỹ tăng 7 USD/tấn lên 277 USD/tấn do doanh số xuất khẩu mạnh. Ngược lại, giá lúa mì Achentina giảm 12 USD/tấn xuống 246 USD/tấn do mưa kịp thời ở một số vùng trồng trọt đã làm giảm bớt lo ngại về vụ thu hoạch 2024/25 sắp tới.
Về triển vọng lúa mì toàn cầu trong niên vụ 2024/25, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo nguồn cung, tiêu thụ và thương mại giảm nhưng lượng dự trữ cuối kỳ cao hơn.
Nguồn cung giảm 1,9 triệu tấn xuống còn 1.060,3 triệu chủ yếu do sản lượng của EU, Nga, Ấn Độ và Brazil giảm. Trong khi đó, sản lượng dự báo cao hơn ở Ukraine và lượng dự trữ đầu kỳ lớn hơn ở Nga.
Thương mại thế giới dự kiến giảm 0,7 triệu tấn xuống còn 215,8 triệu tấn do EU giảm xuất khẩu, một phần được bù đắp bởi lượng xuất khẩu tăng của Ukraine. Dự kiến lượng dự trữ cuối kỳ toàn cầu năm 2024/25 tăng 0,5 triệu tấn lên 257,7 triệu tấn, nhưng vẫn là mức thấp nhất kể từ năm 2015/16.
Trong khi đó, Hội đồng Ngũ cốc Quốc tế (IGC) giữ nguyên dự báo sản lượng lúa mì toàn cầu ở mức 798 triệu tấn, với triển vọng cải thiện cho Kazakhstan được bù đắp bởi các điều chỉnh giảm cho Úc và Achentina.
Đối với Mỹ, USDA dự báo trong niên vụ 2024/25, nguồn cung lúa mì giảm, mức sử dụng trong nước nhiều hơn, xuất khẩu không đổi và tồn kho cuối kỳ thấp hơn. Nguồn cung ước tính giảm 6 triệu bushels xuống còn 2.783 triệu bushels, vì tồn kho đầu kỳ giảm và sản lượng thấp hơn được bù đắp một phần bởi lượng nhập khẩu lớn hơn. Theo báo cáo của NASS ngày 30/9/2024, sản lượng ước tính giảm 11 triệu bushels xuống còn 1.971 triệu bushels. Nhập khẩu tăng 10 triệu bushels lên 115 triệu bushels dựa trên tốc độ nhập khẩu mạnh trong ba tháng đầu năm tiếp thị. Xuất khẩu vẫn ở mức 825 triệu bushels với một số thay đổi theo từng loại. Dự kiến lượng lúa mì dự trữ cuối kỳ giảm 16 triệu bushels xuống còn 812 triệu bushels, nhưng vẫn tăng 17% so với năm trước. Giá lúa mì trung bình theo mùa của Mỹ không đổi ở mức 5,7 USD/bushel.
USDA ước tính dự báo sản lượng lúa mì của EU giảm 9% so với năm 2023/24, với mức giảm lớn về khối lượng và chất lượng của lúa mì Pháp. Điều này cho phép Nga và Ukraine mở rộng thị phần tại các thị trường chính của EU ở Châu Á, Trung Đông và Châu Phi trong quý đầu tiên của năm 2024/25 (tháng 7/2024-tháng 9/2025) mặc dù nguồn cung xuất khẩu ít hơn.
Ukraine đã xuất khẩu 6,2 triệu tấn lúa mì trong quý đầu tiên của năm 2024/25—gần gấp đôi cùng kỳ năm ngoái theo Bộ Chính sách Nông nghiệp của Ukraine. Sản lượng lúa mì của Ukraine được điều chỉnh tăng 600.000 tấn trong tháng này, hiện hầu như không thay đổi so với năm ngoái. Tuy nhiên, nguồn cung có thể xuất khẩu đang ở mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ, bị hạn chế bởi lượng hàng tồn kho nhỏ nhất trong hơn 20 năm. Bất chấp nguồn cung giảm của Ukraine, giá xuất khẩu cạnh tranh, tiếp tục tiếp cận các cảng biển sâu trên Biển Đen và sự cạnh tranh giảm từ EU đã thúc đẩy xuất khẩu trong quý đầu tiên.
Trong khi Tây Ban Nha vẫn là thị trường xuất khẩu hàng đầu của mình, Ukraine đã mở rộng đáng kể xuất khẩu sang Indonesia, Ai Cập, Việt Nam, Algeria và các thị trường quan trọng khác ở Châu Á và Trung Đông. Xuất khẩu của Ukraine năm 2024/25 hiện được dự báo là 16 triệu tấn, vẫn giảm 2,6 triệu tấn so với năm ngoái, vì tốc độ xuất khẩu của nước này dự kiến sẽ chậm lại sau vụ thu hoạch ngô.
Nga đã xuất khẩu 14,7 triệu tấn lúa mì trong quý đầu tiên theo Rusagrotrans. Con số này giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái mặc dù nước này đã xuất khẩu kỷ lục 5,6 triệu tấn vào tháng 8/2024. Ngay cả với các hạn chế nhập khẩu từ các đối tác thương mại lớn là Thổ Nhĩ Kỳ và Kazakhstan, Nga vẫn mở rộng xuất khẩu sang Ai Cập, Kenya, Morocco, Nigeria, Việt Nam và các thị trường khác, nơi nguồn cung xuất khẩu hạn chế tại Pháp đã làm giảm sự cạnh tranh. Sau quý đầu tiên xuất khẩu mạnh mẽ, tốc độ xuất khẩu của Nga dự kiến sẽ chậm lại do nguồn cung giảm 11% so với năm ngoái. Trên thực tế, SovEcon báo cáo rằng lượng lúa mì dự trữ vào ngày 1/9/2024 đã giảm 14% so với năm trước. Xuất khẩu lúa mì của Nga dự kiến đạt 48triệu tấn vào năm 2024/25, giảm 7,5 triệu tấn so với năm trước.
Đáng chú ý, Bộ Nông nghiệp Nga đã thiết lập mức thuế xuất khẩu biến động đối với lúa mì tăng 40,96% so với một tuần trước trong giai đoạn từ ngày 16/10 đến ngày 22/10 ở mức 1.872 Rb/tấn, tăng 544 Rb/tấn.
Vào ngày 19/5/2023, chính phủ đã tăng giá tối thiểu từ 15.000 Rb/tấn lên 17.000 Rb/tấn, sau đó tăng lên 18.000 Rb/tấn vào ngày 1/7/2023. Thuế xuất khẩu được tính theo tỷ lệ phần trăm chênh lệch giữa giá cơ sở và giá xuất khẩu trung bình theo cơ sở FOB trong 60 ngày trước ngày tính toán. Đối với phép tính mới nhất, mức trung bình đó là 215,8 USD/tấn.
Tại Úc, thời tiết khô hạn ở các vùng phía Nam chịu thiệt hại do sương giá vào tháng 9/2024 đang làm giảm năng suất lúa mì nhưng nước này vẫn có thể đạt được một vụ thu hoạch cao hơn mức trung bình.
Chính phủ Úc dự báo thu hoạch được 31,8 triệu tấn, cao hơn nhiều so với 26 triệu tấn của mùa trước và mức trung bình năm năm là 29,8 triệu tấn. Tổng sản lượng của Úc sẽ đạt khoảng 30,6 triệu tấn nhờ vào các vụ thu hoạch lớn ở Tây Úc, New South Wales và Queensland.
USDA dự báo tiêu thụ lúa mì toàn cầu trong năm 2024/25 giảm 2,4 triệu tấn xuống còn 802,5 triệu tấn, chủ yếu do việc sử dụng làm Thực phẩm, Hạt giống và Công nghiệp (FSI) thấp hơn ở Ấn Độ và Afghanistan.
Đối với Mỹ, tiêu thụ lúa mì trong nước dự kiến tăng 10 triệu bushels lên 120 triệu bushels do sử dụng làm thức ăn chăn nuôi và cho các mục đích khác cao hơn. Báo cáo về tồn kho ngũ cốc của NASS phát hành ngày 30/9 cho thấy, lượng lúa mì làm thức ăn chăn nuôi và cho các mục đích khác còn lại trong quý đầu tiên của niên vụ 2024/25 (tháng 6/2024-tháng 8/2024) tăng so với cùng kỳ năm trước.
Nhu cầu lúa mì làm thức ăn chăn nuôi của Philippines vẫn mạnh nhờ sự tăng trưởng liên tục trong các ngành xay xát và thức ăn chăn nuôi. Trong năm 2024/25, nhập khẩu ước tính ở mức 7,2 triệu tấn, tăng 200.000 tấn so với báo cáo tháng trước.
N.Nga
Nguồn: VITIC/USDA/Reuters/Spglobal
 

  PRINT     BACK

© Bộ Công Thương- Trung tâm Thông tin Công Nghiệp và Thương mại (VITIC)

Giấy phép của Bộ Thông tin và Truyền thông số 115/GP-TTĐT, cấp ngày 03/6/2024.

Địa chỉ: Tòa nhà Bộ Công Thương, số 655, Phạm Văn Đồng, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Phòng 605, Tầng 6.

ĐT: (04)39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312


Email: Asemconnectvietnam@gmail.com;

Ghi rõ nguồn "Asemconnectvietnam.gov.vn" khi đăng lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25715985676