Chủ nhật, 24-11-2024 - 0:4 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Thị trường nông sản thế giới ngày 21/8: Giá ngô giảm gần mức thấp nhất trong 4 năm 

 Thứ tư, 21-8-2024

AsemconnectVietnam - Chốt phiên giao dịch ngày 20/8 giá ca cao, giá cà phê, giá tiêu tăng, trong khi giá ngô, giá lúa mì, giá đậu tương, giá dầu cọ, giá đường giảm, riêng giá cao su trái chiều.

Ca cao tăng
Tại New York, giá ca cao giao tháng 12/2024 chốt phiên tăng 302 USD, tương đương 4,1%, lên 7.640 USD/tấn.
Tại London, giá ca cao giao tháng 12/2024 tăng 0,9% lên 5.514 pound/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường đang theo dõi chặt chẽ thời tiết ở Tây Phi trước vụ mùa chính tiếp theo dự kiến bắt đầu vào tháng 10/2024.
Lượng mưa trên mức trung bình đã thúc đẩy sự phát triển của vụ mùa chính từ tháng 10/2024 đến tháng 3/2025 tại hầu hết các vùng trồng ca cao chính của Bờ Biển Ngà vào tuần trước mặc dù nhiệt độ lạnh hơn đã làm dấy lên một số lo ngại.
Cơ quan quản lý ca cao của Ghana Cocobod sẽ không huy động khoản vay hợp vốn cho vụ ca cao 2024/25 lần đầu tiên sau hơn ba thập kỷ.
Cà phê đồng loạt tăng
Trên sàn London, giá Robusta giao tháng 9/2024 tăng 43 USD; lên mức 4.708 USD/tấn. Và kỳ hạn giao tháng 11/2024 tăng nhẹ 24 USD; ở ngưỡng 4.476 USD/tấn.
Tương tự, trên sàn New York, giá Arabica giao tháng 9/2024 nhích nhẹ 0,45 cent; lên mức 245,90 cent/lb. Và kỳ hạn giao tháng 12/2024 tăng 0,25 cent; ở mức 244,35 cent/lb.
Giá cafe thế giới hôm nay đồng loạt tăng nhẹ nhờ đồng USD rơi xuống ngưỡng thấp nhất 7 tháng qua.
Tại thời điểm khảo sát, chỉ số DXY đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) giảm về mốc 101,94.
Bên cạnh đó, yếu tố thời tiết tại Brazil vẫn đang ủng hộ cho giá nông sản này đi lên.
Tiêu tăng nhẹ
Tại Indonesia, giá hạt tiêu đen Lampung tăng 0,8%; lên mức 7.472 USD/tấn. Còn giá hạt tiêu trắng Muntok của quốc gia này cũng tăng 0,8%; ở ngưỡng 8.798 USD/tấn.
Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia giữ ở mức 8.500 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này có giá 10.400 USD/tấn.
Tại thị trường Brazil, giá hạt tiêu đen ASTA 570 vẫn giao dịch tại ngưỡng 6.175 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá hạt tiêu đen xuất khẩu loại 500 g/l giao dịch về mức 5.800 USD/tấn; còn loại 550 g/l ở mức 6.200 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu giữ tại mốc 8.500 USD/tấn.
Đánh giá về tuần trước, IPC cho biết thị trường hạt tiêu toàn cầu vẫn biến động trái chiều. Trong đó, giá tiêu nội địa và xuất khẩu của Ấn Độ và Sri Lanka ổn định, sau 2 tuần tăng.
Ở Đông Nam Á, chỉ có giá hồ tiêu đen Indonesia tiếp tục tăng kể từ tuần trước. Trong khi giá tiêu trắng ghi nhận giảm khi đa phần nông dân tại nước này đang trong mùa thu hoạch.
Giá hồ tiêu nội địa Malaysia ghi nhận giảm trong tuần trước. Còn giá xuất khẩu ổn định và không thay đổi.
Giá hồ tiêu đen Brazil tiếp tục giảm trong 3 tuần qua. Trong khi giá hạt tiêu đen Campuchia và tiêu trắng Trung Quốc tiếp tục ổn định và không thay đổi.
Cũng theo IPC, 7 tháng đã qua của năm 2024, xuất khẩu tiêu của Brazil giảm đến 8%, còn khoảng 42 ngàn tấn, giá trị tương đương 165 triệu USD.
Giá đường thô thấp nhất gần 2 năm
Giá đường thô giảm xuống mức thấp nhất gần 2 năm, chịu áp lực giảm bởi hoạt động bán ra nhiều.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE giảm 0,45 US cent tương đương 2,5% xuống 17,57 US cent/lb – thấp nhất kể từ tháng 10/2022.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London giảm 2,2% xuống 502,5 USD/tấn.
Ngô, đậu tương, lúa mì: Ngô giảm gần mức thấp nhất trong 4 năm
Giá ngô và đậu tương kỳ hạn tại Chicago giảm nhẹ vào ngày 20/8, dao động gần mức thấp nhất trong bốn năm, sau khi dữ liệu mùa vụ mới nhất nhấn mạnh triển vọng về vụ thu hoạch lớn của Mỹ trong năm nay.
Tương tự, giá lúa mì cũng giảm do triển vọng sản xuất thuận lợi của Mỹ với sự cạnh tranh xuất khẩu gay gắt từ khu vực Biển Đen.
Trên Sàn giao dịch thương mại Chicago (CBOT), hợp đồng đậu tương giảm 0,4% xuống còn 9,71-3/4 USD/bushel, trong khi giá ngô tại CBOT giảm 0,3% xuống còn 3,99-1/4 USD/bushel.
Trong một báo cáo hàng tuần, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã đánh giá 67% ngô và 68% vụ đậu tương của Mỹ đang ở tình trạng từ tốt đến xuất sắc, phù hợp với kỳ vọng của các nhà phân tích và là mức cao nhất trong cùng thời điểm trong năm đối với cả hai loại cây trồng kể từ năm 2020.
Tương tự, giá lúa mì CBOT giảm 0,3% xuống còn 5,50-1/2 USD/bushel.
USDA đánh giá 73% vụ lúa mì xuân của Mỹ ở tình trạng tốt đến xuất sắc, tăng 1% so với tuần trước và cao hơn kỳ vọng của các nhà phân tích.
Dầu cọ giảm
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm, chịu áp lực giảm bởi số liệu xuất khẩu giảm và giá dầu đậu tương trên sàn Chicago giảm, song giá dầu thực vật trên sàn Đại Liên tăng đã hạn chế đà suy giảm giá.
Trên sàn giao dịch Bursa Malaysia, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 6 ringgit tương đương 0,16% xuống 3.715 ringgit (849,14 USD)/tấn.
Cao su trái chiều
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 0,5% xuống mức 335,2 yen/kg.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa kỳ hạn Thượng Hải (SHFE), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,75% ở mức 14.815 Nhân dân tệ/tấn.
Số liệu được công bố bởi Tổng cục Hải quan cho thấy, trong tháng 7, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 186.033 tấn, trị giá 307,9 triệu USD, giảm 15,3% về lượng nhưng tăng 7,3% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong tháng 7, giá cao su xuất khẩu bình quân đạt 1.655 USD/tấn, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng tới 26,8% so với cùng kỳ năm 2023. Đây cũng là mức giá cao nhất đạt được trong 2 năm qua, kể từ tháng 6/2022.
Tính chung 7 tháng đầu năm, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 912.725 tấn, trị giá 1,4 tỷ USD, giảm 7,5% về lượng nhưng tăng 5,9% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu cao su bình quân 7 tháng đạt 1.551 USD/tấn, tăng 14,5%.
Về thị trường tiêu thụ, từ đầu năm đến nay xuất khẩu cao su của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc có xu hướng giảm, nhưng bù lại các thị trường khác lại tăng rất mạnh.
Trong tháng 7, xuất khẩu cao su của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đạt 127.664 tấn, trị giá 206,73 triệu USD, giảm mạnh 27,2% về lượng và giảm 8,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Đây cũng là tháng thứ 6 liên tiếp xuất khẩu cao su sang thị trường này giảm so với cùng kỳ năm trước.
Do đó, tính chung 7 tháng đầu năm, xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ đạt 617.033 tấn, trị giá 924,63 triệu USD, giảm 18,6% về lượng và 8,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Với kết quả này, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của nước ta, nhưng thị phần đã giảm xuống còn 67,6% từ mức 76,8% của cùng kỳ.
N.Hao
Nguồn: VITIC
 

  PRINT     BACK

© Bộ Công Thương- Trung tâm Thông tin Công Nghiệp và Thương mại (VITIC)

Giấy phép của Bộ Thông tin và Truyền thông số 115/GP-TTĐT, cấp ngày 03/6/2024.

Địa chỉ: Tòa nhà Bộ Công Thương, số 655, Phạm Văn Đồng, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Phòng 605, Tầng 6.

ĐT: (04)39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312


Email: Asemconnectvietnam@gmail.com;

Ghi rõ nguồn "Asemconnectvietnam.gov.vn" khi đăng lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25715970448