Chủ nhật, 1-9-2024 - 5:26 GMT+7  Việt Nam EngLish 

Thị trường nông sản thế giới ngày 16/7: Giá ca cao tăng do nguồn cung khan hiếm 

 Thứ ba, 16-7-2024

AsemconnectVietnam - Chốt phiên giao dịch ngày 15/6 giá cà phê, giá tiêu ổn định, trong khi giá ngô, lúa mi, đậu tương, giá dầu cọ giảm, riêng giá đường và ca cao tăng.

Cà phê ổn định
Trên sàn London, giá Robusta giao tháng 9/2024 duy trì tại mức 4.617 USD/tấn. Và kỳ hạn giao tháng 11/2024 giữ ở ngưỡng 4.617 USD/tấn.
Tương tự, trên sàn New York, giá Arabica giao tháng 9/2024 neo quanh mức 248,75 cent/lb. Và kỳ hạn giao tháng 12/2024 ở mức 246,80 cent/lb.
Tuần qua, cả 2 sàn London và New York đều tăng mạnh khi giá Robusta và Arabica kỳ hạn giao tháng 9 lần lượt tăng thêm 416 USD/tấn và 19,8 cent/lb.
Xuất khẩu cà phê từ khu vực châu Phi đã tăng mạnh 44,8% trong tháng 5 và tăng 10,9% sau 8 tháng đầu niên vụ 2023/24 khi đạt 9,3 triệu bao. Bờ Biển Ngà, Ethiopia và Uganda là động lực thúc đẩy tăng trưởng của khu vực trong tháng 5, với lượng xuất khẩu tăng lần lượt là 119,4%, 97,1% và 22,1%.
Hiện Uganda đang bước vào vụ thu hoạch chính, trong khi sản lượng của Ethiopia phục hồi trở lại sau khi sụt giảm vào niên vụ trước.
Còn tại Trung Mỹ và Mexico, xuất khẩu cà phê của khu vực tăng nhẹ 0,2% trong tháng 5 nhưng giảm 6,4% sau 8 tháng đầu niên vụ 2023-2024, xuống còn 9,2 triệu bao.
Trong tháng 5, xuất khẩu của khu vực ghi nhận mức tăng trưởng tích cực ở Guatemala (tăng 21%) và Mexico (tăng 25,2%), nhưng giảm ở El Salvador (giảm 11,8%), Honduras (giảm 6,4%) và Nicaragua (giảm 24,6%).
Xuất khẩu từ Honduras tiếp tục bị cản trở bởi sản lượng nông sản này giảm theo chu kỳ sản xuất hai năm một lần, trong khi Nicaragua vẫn đang nỗ lực vượt qua hậu quả từ vụ phá sản của Mercon Coffee Group, một công ty kinh doanh cà phê và là chủ sở hữu của CISA Exportadora, chịu trách nhiệm cho hơn một nửa lượng cafe xuất khẩu của Nicaragua.
Còn đối với Mexico, phần lớn mức tăng xuất khẩu trong tháng 5 đến từ cà phê hòa tan, với mức tăng 61,7%; lên 0,13 triệu bao.
Đường tăng
Trên sàn ICE, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 tăng 2,9% lên 19,76 US cent/lb.
Đồng thời, trên sàn London, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 tăng 4,4% lên 571,6 USD/tấn.
Ca cao tăng do nguồn cung khan hiếm
Trên sàn London, giá ca cao giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 3,1% chốt ở 7.039 bảng Anh/tấn.
Trên sàn New York, giá ca cao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 3,3% chốt mức 8.595 USD/tấn.
Các nhà xuất khẩu ước tính, lượng ca cao cập cảng tại nước sản xuất hàng đầu - Bờ Biển Ngà kể từ đầu vụ (01/10) đến ngày 14/7 đạt 1,63 triệu tấn, giảm 27,4% so với cùng kỳ vụ trước. Trong tuần đầu tháng 7/2024, khoảng 7.000 tấn ca cao được giao đến cảng Abidjan và 9.000 tấn đến cảng San Pedro trong tổng số 16.000 tấn ca cao cập cảng, giảm so với mức 23.000 tấn của cùng giai đoạn vụ trước.
Các nhà giao dịch phải đối mặt với khoản lỗ ít nhất 1 tỷ USD, khi nhà sản xuất lớn Ghana không giao được cà phê trong năm nay do vụ mùa thất bát.
Lúa mì, đậu tương, ngô đồng loạt giảm
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 25-1/4 US cent xuống 10,4 USD/bushel, sau khi chạm 10,38-1/2 USD/bushel – thấp nhất kể từ tháng 10/2020.
Tương tự, giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 18-1/4 US cent xuống 5,32-1/2 USD/bushel - sau khi chạm xuống mức thấp 5,31 USD/bushel. Đồng thời, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 10-1/2 US cent xuống 4,04-1/4 USD/bushel.
Giá đậu tương giảm xuống mức thấp nhất gần 4 năm, giá ngô và lúa mì theo xu hướng giảm do mưa thúc đẩy triển vọng sản lượng tại Trung tây và các thương nhân lo ngại về nhu cầu bởi vụ thu hoạch bội thu.
Dầu cọ giảm
Trên sàn Malaysia, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 19 ringgit tương đương 0,49% xuống 3.896 ringgit (834,26 USD)/tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm phiên thứ 2 liên tiếp, do giá dầu thực vật trên sàn Đại Liên và Chicago giảm, song xuất khẩu ở mức cao đã hạn chế đà suy giảm.
Tiêu ổn định
Tại Indonesia, giá hạt tiêu đen Lampung duy trì ở mức 7.211 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng Muntok của quốc gia này cũng neo tại ngưỡng 9.182 USD/tấn.
Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia neo tại mức 7.500 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này có giá 8.800 USD/tấn.
Đối với thị trường Brazil, giá hồ tiêu đen ASTA 570 vẫn giữ ở ngưỡng 7.150 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu loại 500 g/l giao dịch với mức 6.000 USD/tấn; còn loại 550 g/l ở mức 6.600 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu giữ tại mốc 8.800 USD/tấn.
N.Hao
Nguồn: VITIC
 

  PRINT     BACK

© Bộ Công Thương- Trung tâm Thông tin Công Nghiệp và Thương mại (VITIC)

Giấy phép của Bộ Thông tin và Truyền thông số 115/GP-TTĐT, cấp ngày 03/6/2024.

Địa chỉ: Tòa nhà Bộ Công Thương, số 655, Phạm Văn Đồng, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Phòng 605, Tầng 6.

ĐT: (04)39341911; (04)38251312 và Fax: (04)38251312


Email: Asemconnectvietnam@gmail.com;

Ghi rõ nguồn "Asemconnectvietnam.gov.vn" khi đăng lại thông tin từ kênh thông tin này

Số lượt truy cập: 25714135366