Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024
Thứ năm, 30-5-2024AsemconnectVietnam - Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gạo tăng 9,4% về lượng, tăng 33,5% về kim ngạch và tăng 22% về giá so với 4 tháng năm 2023.
Cũng trong 4 tháng đầu năm nay, xuất khẩu cà phê của cả nước đạt gần 670.000 tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2023; kim ngạch đạt hơn 2,23 tỷ USD, tăng 56,4%.
Tính đến hết tháng 4/2024, Việt Nam đã xuất khẩu được 83.067 tấn hồ tiêu các loại, đạt ổng kim ngạch xuất khẩu đạt 352,0 triệu USD, giảm 19,4% về lượng nhưng kim ngạch lại tăng 10,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2024
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2024 xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm 10,9% về lượng, giảm 12,6% kim ngạch so với tháng 3/2024 và giá giảm 2%, đạt trên 1 triệu tấn, tương đương 619,89 triệu USD, giá trung bình 618,6 USD/tấn. Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gạo tăng 9,4% về lượng, tăng 33,5% về kim ngạch và tăng 22% về giá so với 4 tháng năm 2023, đạt gần 3,17 triệu tấn, tương đương gần 2,04 tỷ USD, giá trung bình 642,7 USD/tấn.
Các thị trường xuất khẩu gạo chủ đạo của Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024
Gạo của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Philippines trong 4 tháng đầu năm 2024, chiếm 47% trong tổng lượng và chiếm 45,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước, đạt gần 1,49 triệu tấn, tương đương gần 935,61 triệu USD, giá 628 USD/tấn, tăng 15,8% về lượng, tăng 44,5% về kim ngạch và tăng 24,8% về giá so với 4 tháng năm 2023; riêng tháng 4/2024 xuất khẩu đạt 478.705 tấn, tương đương 286,82 triệu USD, giá 599,2 USD/tấn, giảm 6,4% về lượng, giảm 8% kim ngạch và giảm 1,8% về giá so với tháng 3/2024.
Xuất khẩu gạo sang Indonesia đứng thứ 2 thị trường, tăng mạnh 79% về lượng, tăng 133,7% kim ngạch và tăng 30,5% về giá so với 4 tháng năm 2023, đạt 548.582 tấn, tương đương 348,31 triệu USD, giá 634,9 USD/tấn, chiếm trên 17% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Tiếp theo, xuất khẩu gạo sang thị trường Malaysia tăng 26,3% về lượng, tăng 59,1% kim ngạch và tăng 26% về giá so với 4 tháng năm 2023, đạt 202.387 tấn, tương đương 123,33 triệu USD, giá trung bình 609,4 USD/tấn, chiếm trên 6% trong tổng lượng và tổng kim ngạch.
Dự báo thế giới sẽ thiếu hụt khoảng 7 triệu tấn gạo trong năm 2024. Điều này tạo ra cơ hội cho các nước xuất khẩu gạo; trong đó, có Việt Nam.
Năm 2024, Việt Nam có thể đáp ứng được nguồn cung để xuất khẩu gạo tương đương năm 2023 (8,13 triệu tấn) nhưng vẫn bảo đảm an ninh lương thực.
Sản lượng gạo hàng hóa xuất khẩu năm 2024 của Việt Nam chủ yếu vẫn tập trung ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.Tổng khối lượng gạo hàng hóa cho xuất khẩu tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm 2024 ước đạt khoảng 7,6 triệu tấn; trong đó, nhóm gạo chất lượng cao khoảng 3,2 triệu tấn; nhóm gạo thơm, đặc sản đạt 2,5 triệu tấn; nhóm gạo chất lượng trung bình đạt 1,15 triệu tấn; nhóm nếp đạt 0,75 triệu tấn.
Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2024 xuất khẩu cà phê của Việt Nam giảm 19,5% về lượng, giảm 7% kim ngạch và giá giảm 14,7% so với tháng 3/2024, đạt 152.073 tấn, tương đương 572,95 triệu USD, giá trung bình 3.767,6 USD/tấn. Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cà phê tăng 3% về lượng, tăng 53,6% về kim ngạch và tăng 49,2% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023, đạt 737.797 tấn, tương đương gần trên 2,5 tỷ USD, giá trung bình 3.388,7 USD/tấn.
Cà phê của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Đức trong 4 tháng đầu năm 2024, chiếm 13,1% trong tổng lượng và chiếm 12,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước, đạt 96.481 tấn, tương đương 317,84 triệu USD, giá 3.294 USD/tấn, giảm 2,8% về lượng, tăng 55% về kim ngạch và tăng 59,4% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023; riêng tháng 4/2024 xuất khẩu đạt 24.104 tấn, tương đương 88,49 triệu USD, giá 3.671 USD/tấn, tăng 10,9% về lượng, tăng 20% kim ngạch và tăng 8,2% về giá so với tháng 3/2024.
Xuất khẩu cà phê sang Italia đứng thứ 2 thị trường, tăng 4,8% về lượng, tăng 54,5% kim ngạch và tăng 47,4% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023, đạt 73.907 tấn, tương đương 229,87 triệu USD, giá 3.110,3 USD/tấn, chiếm 10% trong tổng lượng và chiếm 9,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước.
Xuất khẩu cà phê sang thị trường Tây Ban Nha tăng 53,7% về lượng, tăng 136,7% kim ngạch và tăng 54% về giá so với 4 tháng đầu năm 2023, đạt 55.364 tấn, tương đương 193,28 triệu USD, giá trung bình 3.491 USD/tấn, chiếm 7,5% trong tổng lượng và chiếm 7,7% tổng kim ngạch.
Theo thống kê bộ sơ bộ của Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA), trong tháng 4/2024 Việt Nam xuất khẩu được 26.245 tấn hồ tiêu các loại, trong đó, hồ tiêu đen đạt 23.705 tấn, hồ tiêu trắng đạt 2.540 tấn.
Kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu đạt 116,5 triệu USD, trong đó, hồ tiêu đen đạt 101,1 triệu USD, hồ tiêu trắng đạt 15,4 triệu USD, so với tháng trước lượng xuất khẩu tăng 2,2%, kim ngạch tăng 5,2%.
Giá xuất khẩu bình quân hồ tiêu đen trong tháng 4/2024 đạt 4.292 USD/tấn, hồ tiêu trắng đạt 6.034 USD/tấn, tăng 4,0% đối với hồ tiêu đen và 6,5% đối với hồ tiêu trắng so với tháng 3/2024.
Xuất khẩu hồ tiêu sang thị trường Hoa Kỳ trong tháng 4 đạt 7.514 tấn, tăng 15,5% so với tháng 3 và chiếm 28,6% thị phần xuất khẩu trong tháng, đây cũng là tháng có lượng xuất khẩu hồ tiêu cao nhất tính từ tháng 6/2021 (8.078 tấn).
Tính đến hết tháng 4/2024, Việt Nam đã xuất khẩu được 83.067 tấn hồ tiêu các loại, trong đó tiêu đen đạt 73.555 tấn, tiêu trắng đạt 9.512 tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 352,0 triệu USD, tiêu đen đạt 298,0 triệu USD, tiêu trắng đạt 54 triệu USD. So với cùng kỳ năm ngoái lượng xuất khẩu giảm 19,4%, tuy nhiên kim ngạch lại tăng 10,3%. Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen 4 tháng đạt 4.065 USD/tấn, tiêu trắng đạt 5.678 USD/tấn, tăng lần lượt 19,4% đối với tiêu đen và 14,5% đối với tiêu trắng so với cùng kỳ năm trước.
Các thị trường xuất khẩu hồ tiêu chủ đạo của Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam chiếm 27,4%, đạt 22.774 tấn và so cùng kỳ tăng 45,2%. Tính chung, xuất khẩu sang cả khu vực châu Mỹ tăng 40,6% và chiếm 30,2% thị phần xuất khẩu.
Xuất khẩu sang châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất đạt 36,2%, tuy nhiên so cùng kỳ giảm 52,0%, trong đó, thị trường Trung Quốc giảm mạnh nhất 95,2%, UAE giảm 23%. Ấn Độ là thị trường xuất khẩu lớn nhất tại khu vực châu Á 5.552 tấn, chiếm 6,7% và tăng 23,9 so với cùng kỳ. Xuất khẩu cũng tăng ở Hàn Quốc, tăng 157,4%; Pakistan tăng 59,7% và Philippines tăng 18,5%.
Khu vực châu Âu chiếm 26,8% thị phần xuất khẩu và so cùng kỳ năm ngoái tăng 33,6% trong đó đứng đầu là các thị trường gồm: Đức đạt 5.484 tấn, tăng 104,7%; Hà Lan đạt 3.660 tấn, tăng 52,8%, Nga đạt 2.386 tấn, tăng 68,7%.
Trong khi đó, tại khu vực châu Phi ghi nhận lượng xuất khẩu giảm 4,7%. Tuy nhiên, thị trường truyền thống Ai Cập đang có dấu hiệu tích cực khi lượng xuất khẩu sang thị trường này tăng 10,7%, đạt 1.977 tấn sau khi chính phủ nước này đã có những hỗ trợ về ngoại tệ để thanh toán hàng hóa nhập khẩu.
CK
Nguồn: VITIC/congthuong.vn
Tình hình xuất khẩu và nhập khẩu sắt thép của Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024
Nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2024
Xuất khẩu và nhập khẩu thủy sản Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024
Trao đổi thương mại Việt Nam – New Zealand 4 tháng đầu năm 2024
Xuất khẩu và nhập khẩu thức ăn gia súc của Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024
Tình hình xuất khẩu và nhập khẩu phân bón của Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024
Giá sắn xuất khẩu tăng 18% trong 4 tháng
Xuất khẩu dệt may liệu có “cửa” phục hồi?
Những mặt hàng chính nhập khẩu tử Trung Quốc trong 4 tháng đầu năm 2024
Xuất khẩu than của Việt Nam tăng mạnh
4 tháng, xuất khẩu điện thoại và linh kiện thu về hơn 18,4 tỷ USD
4 tháng, xuất khẩu sầu riêng thu về trên nửa tỷ USD
4 tháng, xuất khẩu rau quả thu về hơn 1,8 tỷ USD nhưng vẫn đối diện với rủi ro cố hữu
Các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024