Nền kinh tế toàn cầu sẵn sàng cho một năm đầy biến động
Thứ ba, 9-1-2024AsemconnectVietnam - Lãi suất cao, sự suy yếu của nền kinh tế Trung Quốc và bầu cử Tổng thống Mỹ có thể tạo nên một năm 2024 đầy khó khăn.
Nền kinh tế toàn cầu đã trải qua đầy bất ngờ vào năm 2023. Bất chấp lãi suất tăng mạnh, Mỹ đã tránh được suy thoái thành công và các thị trường mới nổi lớn không rơi vào khủng hoảng nợ. Ngay cả nền kinh tế trì trệ của Nhật Bản cũng thể hiện sức sống đáng kinh ngạc. Ngược lại, EU lại tụt lại phía sau, khi động cơ tăng trưởng Đức của EU ngừng hoạt động trong khi kỷ nguyên tăng trưởng siêu tốc kéo dài 4 thập kỷ của Trung Quốc đột ngột kết thúc.
Mặc dù cho đến nay, các tình huống xấu nhất đã tránh được, nhưng năm 2023 đã bắt đầu một xu hướng hỗn loạn có thể kéo dài sang năm mới.
Hướng tới năm 2024, một số câu hỏi lớn đang hiện ra. Điều gì sẽ xảy ra với lãi suất dài hạn được điều chỉnh theo lạm phát? Liệu Trung Quốc có thể tránh được tình trạng suy thoái nghiêm trọng hơn do tình trạng hỗn loạn trong lĩnh vực bất động sản và mức nợ chính quyền địa phương cao? Sau khi duy trì lãi suất gần bằng 0 trong hai thập kỷ, liệu Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) có thể bình thường hóa lãi suất mà không gây ra khủng hoảng tài chính và nợ hệ thống? Liệu những tác động chậm trễ của việc tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cuối cùng có đẩy Mỹ vào suy thoái không? Liệu các thị trường mới nổi có thể duy trì sự ổn định thêm một năm nữa? Trên hết, nguyên nhân chính tiếp theo gây bất ổn địa chính trị là gì? Liệu ông Donald Trump có giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào tháng 11 hay là một sự kiện không lường trước được?
Câu trả lời cho những câu hỏi này có mối liên hệ với nhau. Suy thoái kinh tế ở Mỹ có thể khiến lãi suất toàn cầu giảm đáng kể, nhưng điều này chỉ có thể mang lại sự cứu trợ tạm thời. Xét cho cùng, một số yếu tố, bao gồm mức nợ cực cao, xu hướng mất cân bằng ngày càng gia tăng, chủ nghĩa dân túy gia tăng, nhu cầu tăng chi tiêu quốc phòng và quá trình chuyển đổi xanh có thể sẽ giữ lãi suất dài hạn cao hơn nhiều so với mức cực thấp của giai đoạn 2012-2021 trong thập kỷ tiếp theo.
Dưới đây là bốn chủ đề chính cần chú ý.
Lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn
“Các nhà đầu tư nên từ bỏ mọi hy vọng rằng lãi suất sẽ quay trở lại mức cực thấp trước năm 2021”, Kenneth Rogoff, giáo sư kinh tế tại Đại học Harvard và là cựu chuyên gia kinh tế trưởng của IMF cho biết.
Ngay cả khi lãi suất toàn cầu giảm đáng kể do suy thoái kinh tế của Mỹ trong năm 2024, thì điều này cũng chỉ mang lại sự cứu trợ tạm thời, do có nhiều yếu tố cuối cùng sẽ đẩy lãi suất lên cao. Chúng bao gồm nợ quá mức, mất cân bằng gia tăng, chủ nghĩa dân túy, tăng chi tiêu quốc phòng và chuyển đổi xanh.
Mỹ bội chi nhiều hơn
Trái với kỳ vọng của hầu hết các nhà phân tích, nền kinh tế Mỹ đã không rơi vào suy thoái vào năm 2023, nhưng khả năng xảy ra suy thoái có lẽ vẫn là khoảng 30%, so với 15% trong những năm bình thường.
Bất chấp những tác động dài hạn khó lường của biến động lãi suất, chính quyền của Tổng thống Joe Biden vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách tài khóa mở rộng. Tính theo tỷ trọng trong GDP, mức thâm hụt hiện ở mức 6% hoặc 7%, nếu tính cả chương trình xóa nợ cho sinh viên của Tổng thống Biden - mặc dù nền kinh tế đang hoạt động ở mức toàn dụng lao động.
Những rắc rối của Trung Quốc
Sự phục hồi trầm lắng hậu Covid của Trung Quốc sẽ kéo dài thêm một năm nữa, vì các biện pháp hỗ trợ của nước này không thể vực dậy toàn bộ nền kinh tế.
“Sẽ khó có thể giữ cho nền kinh tế Trung Quốc hoạt động hết công suất, đồng thời áp đặt các hạn chế đối với các khoản cho vay mới”, giáo sư Kenneth Rogoff cho biết.
Ông kỳ vọng các nhà chức trách Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy các khoản vay kích thích và giá rẻ cho những lĩnh vực mất khả năng thanh toán, đồng thời hạn chế các chính quyền địa phương có đòn bẩy quá cao khỏi các khoản vay mới.
Nhìn rộng ra, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn khi cố gắng khôi phục tốc độ tăng trưởng 5% hàng năm, với tỷ lệ nợ trên GDP của nước này đạt 83% vào năm 2023. Sự phụ thuộc quá mức vào cơ sở hạ tầng và bất động sản sẽ tiếp tục sẽ là một cơn gió ngược, ngay cả khi Trung Quốc bắt đầu chuyển hướng sang xe điện và đầu tư xanh.
Nhật Bản
Cho đến năm 2023, Nhật Bản vẫn duy trì chính sách tiền tệ lỏng lẻo, bất chấp xu hướng diều hâu của thế giới. Sự chênh lệch này đã khiến đồng yên Nhật giảm gần 40% so với đồng đô la kể từ năm 2021, một mức mà BOJ không thể tiếp tục bỏ qua.
“Mặc dù các nhà hoạch định chính sách Nhật Bản có thể muốn ngồi yên và hy vọng lãi suất toàn cầu giảm sẽ thúc đẩy đồng yên và giải quyết các vấn đề của họ, nhưng đó không phải là một chiến lược dài hạn bền vững”, giáo sư Kenneth Rogoff cho biết.
Nếu Nhật Bản không bắt đầu tăng lãi suất, lạm phát trong nước sẽ bắt đầu tăng cao, một dấu hiệu nguy hiểm lớn đối với một quốc gia có tỷ lệ nợ trên GDP trên 250%.
Trong khi Nhật Bản duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong năm qua, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán nền kinh tế nước này sẽ chậm lại vào năm 2024. Khả năng Nhật Bản hạ cánh suôn sẻ chủ yếu phụ thuộc vào cách BOJ xử lý quá trình chuyển đổi không thể tránh khỏi nhưng đầy rủi ro khỏi chính sách cực thấp.
Trước đây, các nhà kinh tế bao gồm Mohamed El-Erian đã cảnh báo rằng, việc xử lý sai chính sách của Nhật Bản có thể gây ra một "tai nạn tài chính" lan rộng khắp nền kinh tế toàn cầu, vì nhiều nhà đầu tư đã thu lợi từ mức giá thấp của đồng yên.
Trong bối cảnh các cú sốc kinh tế và chính trị kết hợp đặc biệt, các thị trường mới nổi đã tìm cách ngăn chặn một cuộc khủng hoảng vào năm 2023. Trong khi điều này phần lớn là do các nhà hoạch định chính sách áp dụng các chiến lược kinh tế vĩ mô tương đối chính thống, một số quốc gia đã tận dụng căng thẳng địa chính trị leo thang. Ví dụ, Ấn Độ đã tận dụng xung đột Nga-Ukraine để mua lượng lớn dầu giảm chiết khấu cao của Nga, trong khi Thổ Nhĩ Kỳ nổi lên như một kênh quan trọng để vận chuyển hàng hóa châu Âu bị trừng phạt sang Nga.
“Khi căng thẳng địa chính trị gia tăng và các cuộc thăm dò cho thấy ông Donald Trump hiện là ứng cử viên được yêu thích giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, năm 2024 được cho là một năm đầy biến động nữa đối với nền kinh tế toàn cầu. Điều này đặc biệt đúng đối với các thị trường mới nổi, nhưng đừng ngạc nhiên nếu năm 2024 trở thành một năm đầy khó khăn đối với tất cả mọi người”, giáo sư Kenneth Rogoff cho biết.
Nguồn: Tinnhanhchungkhoan.vn
Căng thẳng Biển Đỏ làm chậm trễ, tăng chi phí vận chuyển và lo ngại lạm phát
Hoạt động sản xuất toàn cầu đang cố gắng quay lại đà mở rộng
Liên hợp quốc dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,4%
Nga tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu tới các nước thân thiện
Các đơn đặt hàng quốc phòng toàn cầu tăng vọt khi căng thẳng địa chính trị gia tăng
Kinh tế Trung Quốc phục hồi không đồng đều
Dự báo kinh tế Trung Âu và Đông Âu năm 2024
Giá gạo tăng cao gây áp lực lạm phát ở châu Á
Đồng đô la Mỹ có năm giảm đầu tiên kể từ năm 2020
Những lý do để vui mừng về nền kinh tế toàn cầu trong năm 2024
Dự báo tình hình 3 nền kinh tế khu vực Eurozone năm 2024
Dự báo tình hình kinh tế Trung Quốc năm 2024
Lạm phát của Thụy Điển giảm khi kết thúc đợt tăng lãi suất
Lạm phát 12 tháng của Tây Ban Nha ở mức 3,2% trong tháng 11/2023
Điểm tên 6 mặt hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu vượt mốc 3 ...
Gỗ và sản phẩm gỗ; rau quả; gạo; cà phê; hạt điều; tôm là 6 mặt hàng nông lâm thủy sản có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 3 tỷ USD trong năm ...Xuất khẩu hồ tiêu năm 2023 chỉ thu về 912 triệu USD
Xuất khẩu sản phẩm trồng trọt hướng đến mục tiêu trên 26 ...
Nhật Bản nằm trong Top 2 thị trường nhập khẩu thủy sản của ...
Năm 2024, xuất khẩu gỗ và lâm sản đặt mục tiêu đạt 17,5 tỷ ...