Họp báo thường kỳ Chính phủ tháng 3/2023
Thứ tư, 5-4-2023AsemconnectVietnam - Chiều 03/4 tại Hà Nội, Văn phòng Chính phủ tổ chức họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 03/2023 dưới sự chủ trì của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Người phát ngôn của Chính phủ. Cùng dự họp báo có đại diện lãnh đạo các bộ, ngành liên quan và nhiều cơ quan báo chí. Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cùng đại diện một số đơn vị trong Bộ tham dự họp báo.
Buổi họp báo diễn ra ngay sau Hội nghị trực tuyến giữa Chính phủ với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để đánh giá tình hình KTXH tháng 3 và quý I/2023; triển khai Chương trình phục hồi và phát triển KTXH; phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công; triển khai 03 Chương trình mục tiêu quốc gia và thống nhất các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển KTXH trong quý II/2023 và thời gian tới.
Thông tin về Hội nghị trực tuyến giữa Chính phủ với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính diễn ra cùng ngày, Bộ trưởng Trần Văn Sơn cho biết:
Thảo luận tại phiên họp, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các địa phương thống nhất nhận định quý I/2023 vừa đi qua, có rất nhiều khó khăn, thách thức dưới diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới.
Cụ thể, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột Nga - Ukraine tiếp tục phức tạp hơn. Kinh tế thế giới có xu hướng sụt giảm. Giá một số mặt hàng chiến lược không ổn định. Lạm phát thế giới hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Chính sách tiền tệ các nước tiếp tục thắt chặt. Các rủi ro gia tăng, nhất là thị trường tài chính, ngân hàng toàn cầu; một số ngân hàng ở Mỹ, châu Âu phải ngừng hoạt động, phá sản, trong đó có cả những ngân hàng có lịch sử lâu đời. Sức mua từ các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, EU giảm sút...
Ở trong nước, với quy mô nền kinh tế còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu còn hạn chế. Đặc biệt, nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi nên chịu tác động lớn, bất lợi bởi diễn biến của tình hình thế giới; số lượng đơn hàng, chỉ số sản xuất công nghiệp, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm.
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã bám sát diễn biến tình hình, tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt, linh hoạt các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp phát triển KTXH (trong đó tập trung vào 03 đột phá chiến lược); vừa tiếp tục khắc phục các tồn tại, hạn chế; vừa tập trung xử lý các vấn đề phát sinh với phương châm "Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả".
Qua đó, tình hình KT-XH nước ta trong tháng 3 và quý I/2023 tiếp tục đạt được những kết quả tích cực với nhiều điểm sáng, thực hiện được các mục tiêu Trung ương, Quốc hội giao. Cụ thể, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. GDP quý I tăng 3,32% trong điều kiện có rất nhiều khó khăn; 58/63 địa phương tăng trưởng dương, trong đó một số địa phương có mức tăng trưởng cao (Hậu Giang 12,67%; Bình Thuận 9,86%; Hải Phòng 9,65%; Khánh Hòa 9,07%; Cà Mau 9,05%).
Lạm phát được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng so với cùng kỳ có xu hướng giảm dần qua các tháng (CPI tháng 1 tăng 4,89%, tháng 2 tăng 4,31%, tháng 3 tăng 3,35% so với cùng kỳ, tính chung Quý I tăng 4,18%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra là 4,5%).
Các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm. Thu đủ chi, thu NSNN quý I đạt 30,3% dự toán, tăng 1,3% so với cùng kỳ. Xuất đủ nhập, tính chung quý I xuất siêu 4,07 tỷ USD. Làm đủ ăn, xuất khẩu gần 1,8 triệu tấn gạo, trị giá gần 1 tỷ USD, tăng 19,3% về lượng và tăng 30,2% về trị giá so với cùng kỳ. An ninh lương thực, năng lượng được bảo đảm. Cung ứng lao động cơ bản đáp ứng nhu cầu.
Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định trong điều kiện thế giới có nhiều biến động, lãi suất điều hành được điểu chỉnh giảm 2 lần trong quý I, góp phần làm cho mặt bằng lãi suất có chiều hướng giảm.
Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản ổn định và có tăng trưởng; số lượng gia súc, gia cầm chủ yếu tăng so với cùng kỳ. Thủy sản đạt 1,89 triệu tấn, tăng 1,4% so cùng kỳ. Thương mại, dịch vụ tiếp tục xu hướng tăng cao; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I tăng 13,9% so với cùng kỳ và tăng 26,7% so với năm 2019; du lịch phục hồi nhanh, có gần 2,7 triệu lượt khách quốc tế, gấp 29,7 lần cùng kỳ và bằng gần 3/4 lượng khách của cả năm 2022.
Đầu tư được thúc đẩy. Giải ngân vốn đầu tư công tăng 11,6 nghìn tỷ đồng so với cùng kỳ. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I tăng 3,7% so với cùng kỳ. Thu hút FDI quý I có những tín hiệu tích cực: số dự án FDI đăng ký mới tăng 58,6% so với cùng kỳ; tổng giá trị vốn góp, mua cổ phần đạt gần 2,77 tỷ USD, tăng 51,8% so với cùng kỳ (đặc biệt, Ngân hàng Sumitomo Nhật Bản mua lại 15% cổ phần của Ngân hàng VPBank với giá trị 1,5 tỷ USD). Tổng vốn FDI thực hiện đạt 4,32 tỷ.
DN thành lập mới tháng 3 tăng cả 3 tiêu chí so với tháng 2: số DN (tăng 60,9%), vốn (tăng 122,2%), lao động (tăng 81,4%). Gần 80% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II sẽ ổn định và tốt hơn quý I. Công tác quy hoạch tiếp tục được thúc đẩy. Nhiều quy hoạch quốc gia, tỉnh, ngành được trình và ban hành.
An sinh xã hội được bảo đảm, kinh phí trợ Tết trên toàn quốc là gần 10 nghìn tỷ; hỗ trợ 18.300 tấn gạo cho gần 205.000 hộ với 1,2 triệu nhân khẩu. Dịch COVID-19 và các dịch bệnh khác được kiểm soát tốt. Việt Nam tăng 12 bậc trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới.
Quốc phòng, an ninh, chủ quyền lãnh thổ được giữ vững. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân. Trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; tai nạn giao thông giảm ở cả 3 tiêu chí. Công tác đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh.
Thông tin truyền thông được tăng cường; đã ngăn chặn, gỡ bỏ, phản bác nhiều thông tin giả, xấu, độc, phản cảm, chống phá Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các địa phương cũng thẳng thắn cho rằng, nước ta còn không ít khó khăn, thách thức phải đối mặt, xử lý. Cụ thể, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thực sự vững chắc, các cân đối lớn tiềm ẩn nhiều rủi ro; lạm phát chịu nhiều sức ép. Điều hành chính sách tiền tệ trong nước khó khăn trong bối cảnh chính sách tiền tệ nhiều nước tiếp tục thắt chặt và khó dự báo. Sản xuất công nghiệp có sự sụt giảm. Việc triển khai một số chính sách của 3 Chương trình MTQG, Chương trình phục hồi và phát triển KTXH còn chậm. Hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp còn có mặt hạn chế. Thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo...
Về chỉ đạo các nhiệm vụ thời gian tới, sau khi phân tích tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, đặc biệt nhấn mạnh, thời gian tới những khó khăn, thách thức tiếp tục nhiều hơn so với cơ hội, thuận lợi; áp lực đặt ra là rất lớn, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: "Bối cảnh khó khăn của tình hình đặt ra yêu cầu, đòi hỏi là: đã cố gắng rồi, cần cố gắng hơn nữa; quyết tâm rồi, cần quyết tâm hơn nữa; nỗ lực rồi, cần nỗ lực hơn nữa; có trọng tâm, trọng điểm rồi cần trọng tâm, trọng điểm hơn nữa; làm việc nào phải dứt điểm việc đấy với quyết tâm cao nhất có thể, thực hiện tốt nhất mục tiêu đã đề ra".
Thủ tướng nêu rõ, quan điểm chỉ đạo, điều hành là: Phải bám sát các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ. Các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền chủ động, tích cực và kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân; tập trung cho 3 động lực tăng trưởng là: Tiêu dùng; đầu tư; xuất khẩu.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phải giữ vững bản lĩnh; không chủ quan nhưng cũng không hoang mang, dao động. Lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định; ngoại lực là quan trọng và đột phá; phát huy tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, lấy khó khăn, thách thức là động lực phấn đấu vươn lên, tập trung thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và sinh kế của người dân.
Nắm chắc diễn biến tình hình trong nước, quốc tế; nâng cao năng lực phân tích, dự báo; huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa nguồn lực bên trong và bên ngoài, giữa Trung ương và địa phương, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát; đã nói là phải làm, đã cam kết là phải thực hiện, làm phải có hiệu quả, có sản phẩm, có thể lượng hóa ra được, có thể cân đong đo đếm được.
Tăng cường đoàn kết, thống nhất; giữ gìn kỷ luật, kỷ cương hành chính; khắc phục kịp thời các hạn chế trong phản ứng chính sách của một số cơ quan, đơn vị; giữ đúng nguyên tắc hành động, đồng thời, căn cứ diễn biến thực tiễn để chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành.
Trên tinh thần này, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh một số giải pháp cụ thể:
- Tiếp tục nhất quán mục tiêu bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn; giữ ổn định chính trị - xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; tăng cường đối ngoại.
- Bảo đảm 4 cân bằng giữa lãi suất và tỉ giá; giữa tăng trưởng và lạm phát, giữa cung và cầu; giữa chính sách tiền tệ và tài khóa; giữa tình hình bên trong và bên ngoài. Thực hiện chính sách tiền tệ chắc chắn, chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, chặt chẽ chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm. Bảo đảm thanh khoản, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, an ninh tiền tệ. Chỉ đạo tiếp tục tiết giảm chi phí, giảm lãi suất cho vay, tăng khả năng tiếp cận và đảm bảo tăng trưởng tín dụng trong thời gian tới đây một cách hợp lý và ưu tiên cho các lĩnh vực cần phải ưu tiên như chúng ta đã xác định.
- Tập trung làm tốt công tác quy hoạch để tạo không gian phát triển mới, động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy phát triển KTXH.
- Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 03 Chương trình MTQG.
- Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tạo sinh kế cho người dân. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, rà soát, hoàn thiện thể chế, tháo gỡ khó khăn pháp lý; cắt bỏ quyết liệt các thủ tục hành chính rườm rà, giải quyết nhanh các thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp.
- Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, tăng cường thu hút đầu tư, phương thức hợp tác công - tư, thu hút vốn FDI, nhất là FDI chất lượng cao.
- Theo sát diễn biến giá cả các mặt hàng trên thế giới; chủ động có các kịch bản điều hành giá cả, sản xuất, bình ổn giá phù hợp lường trước các rủi ro. Điều hành thận trọng giá các mặt hàng nhà nước quản lý, xác định thời điểm và lộ trình điều chỉnh giá phù hợp; bảo đảm nguồn cung, lưu thông thông suốt các hàng hóa khác, nhất là những mặt hàng thiết yếu.
- Đẩy mạnh, kích cầu tiêu thụ trong nước. Tăng cường xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, mở rộng thị trường xuất khẩu; đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng; khai thác hiệu quả các FTA. Nâng cao hiệu quả quản lý thị trường, tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả.
- Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là chương trình quốc gia về nông thôn mới. Tập trung tháo gỡ thẻ vàng EC.
- Thúc đẩy phục hồi, phát triển sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo. Có cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất quốc tế.
- Đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến du lịch; tăng cường liên kết, phát triển các sản phẩm du lịch mới, chất lượng.
- Nắm bắt tình hình, nhu cầu nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực, từng vùng, nhất là tại các địa phương có nhiều khu công nghiệp, tập trung lao động; kịp thời kết nối, cung ứng lao động.
- Thực hiện đầy đủ, kịp thời, hiệu quả các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Tổ chức tốt các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn, nhất là Ngày giải phóng miền Nam (30/4) và Quốc tế Lao động (1/5). Thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội bảo vệ môi trường, chăm lo đời sống nhân dân theo tinh thần không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Giải quyết dứt điểm những vấn đề liên quan đến thuốc, trang thiết bị y tế, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho người dân, đảm bảo không để thiếu thuốc, không để thiếu trang thiết bị, không để thiếu các điều kiện để chăm sóc sức khỏe Nhân dân.
- Chuẩn bị tốt công tác chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2023.
- Đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nghiêm các quy định về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tập trung đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm. Tăng cường bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, nhất là trong dịp nghỉ lễ.
- Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống. Đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế.
- Tăng cường tuyên truyền về các nhiệm vụ, kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KTXH; thúc đẩy truyền thông chính sách, tạo đồng thuận xã hội. Chủ động, tích cực đấu tranh, phản bác thông tin sai sự thật, xấu, độc, các quan điểm sai trái, thù địch.
Thủ tướng yêu cầu các đồng chí Bộ trưởng, trưởng ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố phát huy hơn nữa vai trò người đứng đầu, vì nước, vì dân, vì nhiệm vụ chung, nỗ lực phấn đấu thực hiện bằng được, đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ Đảng, Nhà nước đã giao.
Một số vấn đề báo chí quan tâm tại cuộc họp báo
Trong khuôn khổ cuộc họp báo, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn đã chủ trì cùng với đại diện các Bộ, ngành và cơ quan tham dự buổi họp báo trả lời một số câu hỏi của phóng viên báo chí nêu. Các nội dung được hỏi tập trung vào Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin và Truyền thông. Bộ Công Thương nhận được hai câu hỏi liên quan tới khung giá điện cho các dự án năng lượng tái tạo và dự thảo sửa đổi Nghị định 95/2021/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu tại cuộc họp báo. Một số vấn đề liên quan cũng được Lãnh đạo một số Bộ, ngành trả lời trực tiếp tại họp báo như sau:
1. Báo cáo tháng 3 của Tổng cục Thống kê cho thấy GDP tăng trưởng thấp hơn so với mục tiêu đề ra. Vậy chúng ta có giải pháp gì quan trọng trước mắt để có thể đạt được tăng trưởng theo kế hoạch?
1. Báo cáo tháng 3 của Tổng cục Thống kê cho thấy GDP tăng trưởng thấp hơn so với mục tiêu đề ra. Vậy chúng ta có giải pháp gì quan trọng trước mắt để có thể đạt được tăng trưởng theo kế hoạch?
Nhiều nhà đầu tư dự án năng lượng tái tạo cho rằng khung giá điện mà Bộ Công Thương đưa ra quá thấp, không thể có lãi và chưa thể gửi hồ sơ đàm phán với EVN. Bộ Công Thương có cách tháo gỡ nào cho các dự án này?
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương trả lời: Vấn đề KTXH trong quý I được rất nhiều người quan tâm khi Tổng cục Thống kê công bố kết quả tăng trưởng GDP của quý I đạt mức thấp. Điều này phản ánh thực tiễn đúng theo những gì chúng ta đánh giá khi xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2023. Lúc đó nhận định về bối cảnh tình hình cho thấy khó khăn thách thức và cơ hội, thuận lợi đan xen nhưng khó khăn thách thức nhiều hơn. Thực tế đã diễn ra đúng như nhận định, thậm chí những khó khăn, thách thức còn lớn hơn những gì chúng ta dự kiến.
Chính vì vậy, bối cảnh quốc tế, khó khăn trên thế giới như các vấn đề về lạm phát tuy có hạ nhiệt nhưng còn ở mức cao, chính sách thắt chặt tiền tệ của các quốc gia, các nền kinh tế lớn trên thế giới, nhu cầu của thị trường toàn cầu giảm sút, tác động của cuộc xung đột Nga-Ukraine… tất cả có tác động rất lớn đến nền kinh tế của chúng ta, vì nền kinh tế của chúng ta có độ mở lớn.
Với bối cảnh như vậy, qua báo cáo của Tổng cục Thống kê và đánh giá của Bộ KH&ĐT, kết quả tăng trưởng của quý I được đánh giá ở mức khá so với bình quân chung trên thế giới và khu vực, khi mà các nền kinh tế khác được dự báo là tăng trưởng ở mức rất thấp. Chúng ta phải ghi nhận một cách khách quan và trong báo cáo của Bộ KH&ĐT đã phân tích rõ những nguyên nhân, kết quả đạt được cũng như những khó khăn, hạn chế mà chúng ta cần khắc phục.
Về giải pháp trong năm 2023 như thế nào để khắc phục được vấn đề này? Trong báo cáo Bộ KH&ĐT đã tham mưu, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các vấn đề điểm nhấn như sau.
Thứ nhất, trong năm 2023, với những khó khăn như vậy, để đạt mục tiêu, kế hoạch đã đề ra và chỉ tiêu Quốc hội giao, chúng ta phải nỗ lực, cố gắng rất lớn để bù đắp những gì quý I chúng ta chưa đạt được. Ở đây, chúng ta phải giữ quan điểm nhất quán, trước tiên là đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Đây là yếu tố nền tảng, quyết định mọi thứ để có thể triển khai các giải pháp khác nhằm phục hồi cũng như thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế những tháng còn lại.
Thứ hai, trong các giải pháp về vĩ mô, có 2 chính sách cần chú trọng trong điều hành, hết sức linh hoạt, hiệu quả, và thận trọng. Đó là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Hiện nay, với tác động chính sách tiền tệ thế giới, chúng ta gặp rất nhiều thách thức trong quá trình điều hành, đòi hỏi mức độ nhạy bén, kịp thời, linh hoạt hết sức cao trong điều hành, vừa đảm bảo chống chọi với khó khăn do quốc tế mang lại, nhưng cũng cần đảm bảo cung cấp đủ nguồn lực cho nền kinh tế để duy trì hoạt động và phát triển.
Thứ ba, phải rà soát ngay tất cả các chính sách, động lực tăng trưởng còn lại của nền kinh tế để tập trung tác động, lấy tăng trưởng của khu vực thuận lợi để bù đắp khu vực khó khăn.
Theo phân tích của Tổng cục Thống kê, khu vực sản xuất chế biến, chế tạo gặp rất nhiều khó khăn, tăng trưởng ở mức thấp, tăng trưởng âm. Vì thế, những động lực còn lại cần phải quan tâm hơn với nông nghiệp là trụ đỡ. Dịch vụ của chúng ta tăng trưởng tốt, do vậy tập trung vào lĩnh vực dịch vụ để đỡ bớt cho các lĩnh vực khác.
Ở khía cạnh tiêu dùng, động lực xuất khẩu tuy giảm về quy mô nhưng về cân đối chúng ta vẫn duy trì được thặng dư xuất khẩu với xuất siêu 4 tỷ USD.
Trong lĩnh vực đầu tư, đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân tuy bị ảnh hưởng nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng dương. Ở đây, vai trò của đầu tư công hết sức lớn, và Thủ tướng Chính phủ vẫn tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương quan tâm đến thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Đây là giải pháp then chốt trong động lực về đầu tư và tăng trưởng.
Cái cuối cùng trong các lĩnh vực cần rà soát là phát triển thị trường trong nước. Khi xuất khẩu của chúng ta gặp khó khăn, thì vai trò của thị trường trong nước hết sức quan trọng. Phải áp dụng tất cả các giải pháp để khuyến khích thị trường trong nước phát triển hơn.
Từ nay đến cuối năm, bên cạnh những giải pháp chung, chúng ta đã xác định trong Nghị quyết 01 của Chính phủ, cũng như các nghị quyết chuyên đề theo chỉ đạo của Thủ tướng. Trong kiến nghị lần này, Bộ KH&ĐT đã tham mưu một giải pháp khá mới trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với tất cả các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Đó là tháo gỡ ngay từ cấp cơ sở. Ở Trung ương, Thủ tướng đã chỉ đạo quyết liệt việc thành lập các ban chỉ đạo, tổ công tác liên ngành, tổ công tác đặc biệt. Ở địa phương, cũng cần tương tự như vậy. Kiến nghị các địa phương cũng thành lập các tổ công tác đặc biệt như vậy, tập trung giải quyết thẳng vào các dự án, các doanh nghiệp đầu tư đang gặp khó khăn, vướng mắc tại địa phương để có cơ hội ổn định sản xuất, kinh doanh. Có như vậy thì mới có thể phần nào vượt qua khó khăn ban đầu của quý I, cố gắng đạt được mục tiêu trong các tháng, các quý còn lại dù chúng ta biết rằng, nhiệm vụ từ nay đến cuối năm hết sức nặng nề, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng hết sức lớn từ các cấp, các ngành.
Về chi tiết Bộ KH&ĐT sẽ phối hợp với VPCP xây dựng Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ, trong đó thể hiện rất cụ thể những giải pháp, có phân công cho từng cơ quan, bộ, ngành Trung ương và các địa phương.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải trả lời: Từ trước đến nay, cơ chế giá FIT là cơ chế giá điện hỗ trợ, được thiết kế để thúc đẩy đầu tư vào các dự án điện mặt trời, điện gió và được quy định chỉ trong khoảng thời gian nhất định. Sau khi cơ chế giá FIT hết hiệu lực, cơ chế giá điện cho các nhà máy điện mặt trời (NMĐMT), nhà máy điện gió (NMĐG) chuyển tiếp cần thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Để xây dựng khung giá điện cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp, ngày 03/10/2022, Bộ Công Thương ban hành Thông tư số 15/2022/TT-BCT quy định phương pháp xác định khung giá phát điện nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp. Căn cứ theo quy định tại Thông tư này, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã báo cáo Bộ Công Thương về kết quả tính toán khung giá phát điện NMĐMT, NMĐG chuyển tiếp.
Trên cơ sở kết quả tính toán do EVN trình, Bộ Công Thương đã lấy và tiếp thu ý kiến của Bộ Tài chính, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và xem xét ý kiến của Hội đồng tư vấn, sau đó Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 21/QĐ-BCT ngày 07/01/2023 quy định khung giá phát điện NMĐMT, NMĐG chuyển tiếp để làm cơ sở cho EVN và các chủ đầu tư sớm thỏa thuận giá điện để đưa các nhà máy vào vận hành, tránh gây lãng phí tài nguyên. Theo đó, khung giá đã được tính toán trên cơ sở dữ liệu thu thập được từ báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật được thẩm định của 102 nhà máy điện mặt trời và 109 nhà máy điện gió.
Việc lựa chọn bộ thông số đầu vào chuẩn để tính toán, thẩm định khung giá được thực hiện theo đúng quy định tại Thông tư số 15/2022/TT-BCT. Theo các số liệu của các tổ chức tư vấn trong nước và quốc tế, suất đầu tư điện gió, điện mặt trời trên thế giới có xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn vừa qua, bất chấp sự gia tăng đáng kể của chi phí vật liệu. Các thông số có liên quan được lựa chọn dựa trên cơ sở thu thập số liệu, tính toán căn cứ tình hình thực tế của các NMĐG, NMĐMT, có tham khảo số liệu của các tổ chức tư vấn cả trong nước và quốc tế.
Sau khi có khung giá điện này, Bộ Công Thương đã yêu cầu EVN khẩn trương phối hợp với chủ đầu tư các nhà máy điện gió, điện mặt trời chuyển tiếp thỏa thuận, thống nhất giá điện để sớm đưa các nhà máy vào vận hành, tránh gây lãng phí tài nguyên, căn cứ vào các hướng dẫn trước đó tại các văn bản mà Bộ Công Thương đã ban hành.
Việc đàm phán về giá điện cần được thực hiện trên tinh thần hài hòa lợi ích giữa các bên, chia sẻ rủi ro theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời các dự án phải chấp hành đầy đủ quy định pháp luật về đất đai, xây dựng, điện lực, quy hoạch, môi trường, phòng cháy chữa cháy… Bộ Công Thương mong muốn EVN và các Chủ đầu tư sớm thảo thuận, thống nhất giá điện nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp để đưa các dự án vào hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
2. Hiện nay Dự thảo sửa đổi Nghị định 95/2021/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu vẫn chưa có nội dung cập nhật để lấy ý kiến công khai với các doanh nghiệp. Xin hỏi tiến độ sửa đổi Nghị định này và với những đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp, đặc biệt là đề xuất việc tự quyết giá hay tháo gỡ những bất cập trong chiết khấu, đã được sửa đổi ra sao và khi nào có thể trình công khai Dự thảo này lấy ý kiến?
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải trả lời: Ngày 01 tháng 12 năm 2022, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 4326/VPCP-KTTH thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái về đề nghị xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2021 và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, theo đó, Bộ Công Thương được giao xây dựng Nghị định theo trình tự, thủ tục rút gọn được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ, hiện nay Bộ Công Thương đang phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, Ngành có liên quan rà soát, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 95/2021/NĐ-CP và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu. Theo đó, Bộ Công Thương đã triển khai thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể như: ngày 06 tháng 01 năm 2023, Bộ Công Thương đã có Công văn số 62/BCT-TTTN gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ; Hiệp hội xăng dầu Việt Nam; Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các thành viên Ban soạn thảo Nghị định đề nghị góp ý đối với nội dung dự thảo Nghị định. Trong đó đề nghị Hiệp hội xăng dầu Việt Nam tổ chức việc lấy ý kiến đối với các doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội và Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức lấy ý kiến của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu có đăng ký hoạt động kinh doanh trên địa bàn. Dự thảo Nghị định cũng đã được đăng trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương để lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân.
Theo đó, nhằm lắng nghe, tiếp thu ý kiến của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đối với việc xây dựng Nghị định, ngày 14 tháng 02 năm 2023, Bộ Công Thương đã phối hợp với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tổ chức Hội thảo "Góp ý dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 95/2021/NĐ-CP và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu". Tiếp đó, ngày 06 tháng 3 năm 2023, Bộ đã phối hợp với Báo tiền phong tổ chức tọa đàm: "Kinh doanh xăng dầu và bài toán đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia: Tiếng nói người trong cuộc".
Hiện nay, Bộ Công Thương đang tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị định theo kết luận của lãnh đạo Chính phủ tại cuộc họp về việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2021 và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu. Theo đó, việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2021 và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu sẽ tập trung vào một số nội dung trọng tâm, thực sự cấp bách và phù hợp với tình hình thực tiễn.
Cũng xin lưu ý là không có phương án nào là hoàn toàn hoàn hảo, không có khiếm khuyết, chỉ có phương án tốt nhất trong thời điểm hiện nay.
Trong quá trình rà soát, đề xuất sửa đổi Nghị định số 95/2021/NĐ-CP và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu, Bộ Công Thương đã nhận được nhiều ý kiến, kiến nghị của các doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu, trong đó có đề nghị cần có quy định về mức chiết khấu tối thiểu trong hoạt động kinh doanh xăng dầu, chu kỳ điều hành chỉnh giá xăng dầu, công thức tính giá…
Các kiến nghị của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, các đối tượng liên quan đã, đang và sẽ được Ban Soạn thảo Nghị định nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng, đảm bảo dự thảo Nghị định được xây dựng trên cơ sở tiếp thu ở mức cao nhất ý kiến đóng góp của các đối tượng chịu tác động, đáp ứng yêu cầu phù hợp với tình hình thực tiễn, công khai, minh bạch, hiệu quả, hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và doanh nghiệp theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
3. Vừa qua Chính phủ đã ban hành những nghị quyết, nghị định để giải quyết căn bản những khó khăn, vướng mắc liên quan đến nhập khẩu trang thiết bị y tế. Xin Bộ Y tế cho biết, những giải pháp này đã giải quyết những khó khăn, vướng mắc này như thế nào?
3. Vừa qua Chính phủ đã ban hành những nghị quyết, nghị định để giải quyết căn bản những khó khăn, vướng mắc liên quan đến nhập khẩu trang thiết bị y tế. Xin Bộ Y tế cho biết, những giải pháp này đã giải quyết những khó khăn, vướng mắc này như thế nào?
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương trả lời: Ngày 3/3/2023 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 8/11/2021 quy định về quản lý trang thiết bị y tế.
Nghị định số 07/2023/ND-CP ban hành đã kịp thời giải quyết hầu hết những vướng mắc, khó khăn của các bệnh viện trong việc mua sắm, đấu thầu trang thiết bị y tế, kịp thời đáp ứng nguồn cung, giải quyết ách tắc do tồn dọng trang thiết bị y tế nhập khẩu tại các cửa khẩu.
Nghị định số 07/2023/ND-CP còn là căn cứ để các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất, cung ứng trang thiết bị y tế và các nhà quản lý các cấp, lãnh đạo các bệnh viện, cơ sở y tế xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ nhằm góp phần cung cấp cho ngành y tế các trang thiết bị có chất lượng, dùng giá trị và sử dụng hiệu quả nhằm phục vụ công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, cụ thể:
Để giải quyết tình trạng thiếu trang thiết bị do giấy phép nhập khẩu trang thiết bị y tế và số đăng ký lưu hành trang thiết bị y tế là sinh phẩm chẩn đoán invitro hết hạn, trong khi tiến độ cấp mới số lưu hành trang thiết bị y tế chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội, Nghị định số 07/2023/ND-CP quy định gia hạn hiệu lực giấy phép nhập khẩu, số lưu hành trang thiết bị y tế:
- Giấy phép nhập khẩu trang thiết bị y tế đã được cấp từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2021 được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2024;
- Số đăng ký lưu hành đối với trang thiết bị y tế là sinh phẩm chẩn đoán in vitro đã được cấp từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2019 được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2024.
Các tổ chức đã được cấp giấy phép nhập khẩu, số lưu hành trang thiết bị y tế phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng, số lượng, chủng loại, mục dích sử dụng của trang thiết bị y tế. Bộ Y tế sẽ thực hiện thanh tra, kiểm tra và thu hồi giấy phép nhập khẩu, số lưu hành trang thiết bị y tế đối với các trường hợp vi phạm quy định về quản lý trang thiết bị y tế.
4. Xin cho biết lộ trình và tiến độ xây dựng của gói tín dụng 120.000 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở xã hội. Khi nào thì gói chính sách này có thể chính thức triển khai? Xin cho biết việc triển khai thực hiện quy chế làm việc của Chính phủ, đặc biệt là về nội dung tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, việc chấp hành các công tác trọng tâm thời gian qua được thực hiện ra sao?
4. Xin cho biết lộ trình và tiến độ xây dựng của gói tín dụng 120.000 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở xã hội. Khi nào thì gói chính sách này có thể chính thức triển khai? Xin cho biết việc triển khai thực hiện quy chế làm việc của Chính phủ, đặc biệt là về nội dung tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, việc chấp hành các công tác trọng tâm thời gian qua được thực hiện ra sao?
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà trả lời: Nghị quyết số 33/NQ-CP của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh và bền vững. Trong đó có giao cho Ngân hàng Nhà nước chủ trì triển khai chương trình tín dụng 120.000 tỷ, chỉ đạo các ngân hàng thương mại, chủ lực là bốn ngân hàng thương mại nhà nước cho chủ đầu tư và người mua nhà trong dự án nhà ở xã hội cho công nhân, các dự án cải tạo chung cư cũ, cho vay lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất cho vay thông thường và các ngân hàng khác nếu đủ điều kiện có thể tham gia thực hiện Nghị quyết số 33.
Triển khai Nghị quyết của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã nhanh chóng, khẩn trương làm việc với bốn ngân hàng thương mại nhà nước, trao đổi những thông tin có liên quan để triển khai chương trình này. Và đến ngày 1/4/2023 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản gửi các ngân hàng thương mại và các chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước tại 63 tỉnh, thành phố thông báo một số thông tin có liên quan đến chương trình này và một số nội dung chính như sau:
Thứ nhất là ai là người cho vay? Trước hết là bốn ngân hàng thương mại nhà nước gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương.
Cho vay đối tượng nào? Một là cho công nhân và các dự án cải tạo chung cư cũ.
Ai là người vay? Đối tượng chủ đầu tư các dự án mà tôi đã nói ở trên. Thứ hai là người mua nhà.
Còn về lãi suất, theo Nghị quyết của Chính phủ, lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thông thường của ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cũng xác định luôn trong kỳ này lãi suất thay đổi 6 tháng/lần và từ nay đến 1/6, lãi suất đối với chủ đầu tư sẽ là 8,7%/năm, lãi suất đối với người mua nhà là cá nhân là 8,2%. Tức là thấp hơn 1,5-2% lãi suất cho vay thông thường của bốn ngân hàng thương mại nhà nước.
Thời gian ân hạn là 3 năm đối với chủ đầu tư và 5 năm đối với người mua nhà.
Xác định đây là dự án rất dài hạn nên Ngân hàng Nhà nước cũng quy định phương án giải ngân rất dài. Bắt đầu từ 1/4 tức là ngày ban hành công văn cho đến 31/12/2030. Thời hạn giải ngân rất dài.
Về nguồn vốn, bốn ngân hàng thương mại sẽ tự huy động bằng nguồn vốn huy động của mình để cho vay những đối tượng này. Các ngân hàng khác mà muốn tham gia thì Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng cho phép các ngân hàng khác tham gia với điều kiện tuân thủ các điều kiện theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Đấy là một số nội dung có liên quan đến hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước về cho vay chương trình này.
Tóm lại, chương trình phải triển khai ngay từ 1/4 và trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại có thể tham gia. Các đối tượng liên quan đến chương trình cho vay này có thể liên hệ với các ngân hàng thương mại để có thể triển khai thủ tục vay theo quy định của pháp luật.
Còn nội dung nữa, ở quý I, chúng ta thấy tăng trưởng rất thấp, cho nên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo rất sát sao các chính sách của các bộ, cụ thể là chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, phối hợp rất chặt chẽ và đồng bộ. Về phía Ngân hàng Nhà nước cũng đã bám sát thị trường, xác định lãi suất là cái ưu tiên, cố gắng có thể giảm lãi suất và sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước là chủ động giảm 3 mức lãi suất điều hành và lãi suất cho vay được ưu tiên. Ngay khi số liệu vĩ mô quý I được công bố ngày 29 thì ngày 31/3, Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở đánh giá tình hình lạm phát và các cân đối lớn đã xác định điều chỉnh tiếp 7 mức lãi suất chủ chốt còn lại đến ngày hôm nay. Ngân hàng Nhà nước đã rất chủ động, linh hoạt, kịp thời giảm mức lãi suất. Đến ngày hôm nay, cơ bản lãi suất điều hành, lãi suất chủ chốt thị trường đã được giảm với mục tiêu là hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, không chủ quan với lạm phát.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn trả lời: Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo về gói 1.200 tỷ để hỗ trợ cho nhà ở xã hội và đặc biệt là cho nhà ở công nhân, cải tạo chung cư cũ.
Bộ Xây dựng sẽ ban hành các danh mục dự án, các tiêu chí, điều kiện, các đối tượng. Như thế là rất đồng bộ, rất kịp thời.
Sáng ngày hôm nay, trong phiên họp Chính phủ thường kỳ, một số địa phương cũng phát biểu và nhiều địa phương cũng đã công bố các dự án, nhiều địa phương đã quy hoạch xong, cũng còn một số địa phương đang triển khai rất tích cực.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng trả lời: Trước hết, Quy chế làm việc của Chính phủ đã được ban hành theo Nghị định 39/2022/NĐ-CP ngày 18/6/2022. Trong đó ghi rất rõ nguyên tắc làm việc, phạm vi, cách thức giải quyết công việc, chương trình công tác của Chính phủ.
Qua theo dõi, Bộ Nội vụ được biết, theo Quy chế làm việc của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các tỉnh đều đã ban hành quy chế làm việc, đảm bảo phù hợp với Quy chế làm việc của Chính phủ, đảm bảo quan hệ công tác thông suốt, liên tục giữa Chính phủ với các bộ, cơ quan ngang bộ.
Theo nội dung Quy chế làm việc, trước đây là Nghị định 138 năm 2016 và bây giờ là Nghị định 39, rất chú trọng đến nội dung kỷ luật, kỷ cương làm việc.
Trước đây, ngày 5/9/2016, Thủ tướng cũng đã ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Trên tinh thần như vậy, quy chế làm việc của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan của Chính phủ, các tỉnh được thực hiện rất nghiêm túc. Đặc biệt, trong các phiên họp thường kỳ Chính phủ, Thủ tướng, các đồng chí lãnh đạo Chính phủ đều có đánh giá kết quả thực hiện, chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính.
Về trách nhiệm của Bộ Nội vụ, với nhiệm vụ thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách hàng chính, Bộ Nội vụ tập trung vào việc báo cáo kết quả cải cách hành chính trong các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, trong đó có các nội dung liên quan đến thủ tục hành chính, các kết quả cắt giảm thủ tục hành chính như thế nào, việc triển khai thực thi thủ tục hành chính ra sao, những vướng mắc… Quan hệ phối hợp giữa các bộ, các cơ quan chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn. Vấn đề trả lời kiến nghị của các bộ, ngành, địa phương vẫn còn có những lúc chưa kịp thời. Các phóng viên có thể liên hệ Bộ Nội vụ, chúng tôi sẽ cấp con số cụ thể về số thủ tục hành chính cắt giảm như thế nào, các thủ tục hành chính đơn giản, dịch vụ công ra làm sao…
Trong xây dựng quy chế, Bộ Nội vụ cũng đang tập trung ngoài cải cách thủ tục hành chính còn kiện toàn thủ tục để đảm bảo quan hệ thông suốt từ Trung ương đến địa phương.
Trước đây, năm 2020, Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ 2 Nghị định hết sức quan trọng là Nghị định 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức rồi tiếp đó là Nghị định ngày 20/9/2020 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức. Họp Quốc hội vừa rồi, Bộ Nội vụ đã báo cáo trình Chính phủ, Quốc hội quy định về thời hiệu kỷ luật cán bộ, công chức để đảm bảo liên thông giữa quy định của Đảng và quy định của pháp luật. Bộ Nội vụ cũng trình xem xét kỷ luật các trường hợp vi phạm kỷ cương và vi phạm khác đối với các chức danh thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn trả lời: Năm 2022 cũng như quý I/2023, công việc của Chính phủ, các địa phương, các bộ rất nhiều. Ngoài công việc giải quyết các nhiệm vụ thường xuyên ra, còn các công việc tồn đọng, như những chương trình phát triển 1 triệu căn nhà ở xã hội, các chương trình trọng điểm quốc gia. Công việc rất nhiều nhưng các bộ, ngành, địa phương cũng rất cố gắng để giải quyết những công việc rồi giải quyết các kiến nghị của các địa phương một cách kịp thời.
Đặc biệt trong phân công, phân cấp, phân quyền, ủy quyền được đẩy mạnh rõ thẩm quyền, rõ trách nhiệm.
Những việc thực hiện Quy chế làm việc của Chính phủ đã nâng cao tính chủ động, tích cực trong giải quyết công việc thuộc thẩm quyền của các Bộ trưởng và trưởng các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cũng như của các địa phương.
Qua theo dõi, những văn bản trình không đúng thẩm quyền đã hạn chế tối đa. Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục đổi mới và đảm bảo đầy đủ, chặt chẽ, đúng thẩm quyền, đúng quy định và chất lượng, tiến độ được nâng lên.
Đặc biệt công tác phối hợp giải quyết công việc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, khi có những vấn đề khó, những vấn đề phức tạp, những vấn đề liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của một số bộ, những vấn đề có tính chất chuyên ngành thì các đồng chí Bộ trưởng bao giờ cũng trao đổi thống nhất. Các Bộ trưởng không thống nhất được thì Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực sẽ họp. Chính vì thế sẽ giải quyết được công việc, hạn chế được nhiều cuộc họp. Trước đây, có những vấn đề khó, vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau, vấn đề về chức năng nhiệm vụ của một số bộ có khi phải vài ba cuộc họp thì bây giờ đã giải quyết được. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường như Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng vừa trình bày.
5. Sau ngày 31/3, thuê bao di động chưa chuẩn hóa thông tin trùng khớp với CSDL quốc gia dân cư đã bị khóa 1 chiều. Thuê bao tiếp tục chưa chuẩn hóa thông tin sẽ bị khóa 2 chiều sau 15/4 để giải quyết triệt để sim rác, hay sim không khai báo theo quy định. Xin Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, với những các thuê bao đã đăng ký thuê bao chính chủ bằng chứng minh thư trước đó, nhưng chưa được đồng bộ với căn cước công dân trong CSDL quốc gia dân cư sẽ xử lý thế nào? Việc thực hiện hướng dẫn người dân sẽ ra sao?
5. Sau ngày 31/3, thuê bao di động chưa chuẩn hóa thông tin trùng khớp với CSDL quốc gia dân cư đã bị khóa 1 chiều. Thuê bao tiếp tục chưa chuẩn hóa thông tin sẽ bị khóa 2 chiều sau 15/4 để giải quyết triệt để sim rác, hay sim không khai báo theo quy định. Xin Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, với những các thuê bao đã đăng ký thuê bao chính chủ bằng chứng minh thư trước đó, nhưng chưa được đồng bộ với căn cước công dân trong CSDL quốc gia dân cư sẽ xử lý thế nào? Việc thực hiện hướng dẫn người dân sẽ ra sao?
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thanh Lâm trả lời: Trước hết xin khẳng định, những thuê bao đã được đăng ký bằng chứng minh thư nhân dân (CMTND), nếu như có thông tin đầy đủ và chính xác theo quy định vẫn hoạt động bình thường.
Cụ thể quy trình, thuê bao đã đăng ký bằng CMTND mà chưa đồng bộ căn cước công dân mới, được hiểu là có thể chưa kịp đồng bộ, hay người đó chưa được cấp CCCD, trong CSDL quốc gia chưa có dữ liệu về CCCD mới, thì sẽ được nhà mạng chủ động rà soát dữ liệu trong CSDL của nhà mạng và hồ sơ đăng ký thuê bao ngày xưa, tức là hồ sơ bản giấy hay bản photo giấy tờ tuỳ thân để khẳng định cơ sở nhà mạng trùng khớp với bản chụp giấy tờ khi đăng kí của khách hàng. Việc này nhà mạng tự làm không phiền gì tới người dân vì nhà mạng nắm giữ hồ sơ.
Trong trường hợp đã trùng khớp, nhà mạng tiếp tục định kỳ đối soát cơ sở CSDL quốc gia về dân cư. Khi CSDL này có thêm dữ liệu của người dân khi người dân đến làm CCCD mới hay cập nhật CMTND, thì nhà mạng cập nhật dần dần và đối soát định kỳ với CSDL quốc gia dân cư, không phiền toái gì người dân cả.
Với công dân, khi muốn kiểm tra thuê bao có thông tin đúng của mình chưa, cách thức nhà mạng đã hướng dẫn rộng rãi rồi. Người dân chủ dộng nhắn tin SMS tới đầu số 1414 với cú pháp TTTB (viết tắt của "thông tin thuê bao"), nhắn miễn phí, để biết số điện thoại đang sử dụng có thông tin đúng chưa. Khi đó nhà mạng sẽ trả lại thông tin. Nếu khớp rồi thì không vấn đề gì, còn nếu không khớp, chúng ta liên hệ lại nhà mạng qua số điện thoại chăm sóc khách hàng, qua trang web nhà mạng hay qua các ứng dụng trên điện thoại di động để chuẩn hóa thông tin thuê bao.
Đây là vấn đề đông đảo dư luận quan tâm, chiều thứ năm ngày 6/4 vào lúc 16h, tại cuộc họp báo của Bộ TT&TT, Bộ sẽ cung cấp thông tin đầy đủ hơn.
Nguồn: moit.gov.vnThứ trưởng Đỗ Thắng Hải trả lời báo chí tại Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 3/2023
Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải làm việc với Đại sứ Argentina tại Việt Nam
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên gặp Chủ tịch Hội nghị sỹ hữu nghị I-xra-en – Việt Nam
Cuộc họp trực tuyến cấp Bộ trưởng giữa các nước thành viên Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Vương quốc Anh
Việt Nam – Úc tổ chức họp Nhóm công tác Thương mại lần thứ 4
Phát triển đầu tư, thương mại, dịch vụ - Tạo liên kết vùng cho doanh nghiệp
Trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp phát triển ngành Công Thương Việt Nam” cho Tổng giám đốc Công ty Honda Việt Nam
Hội nghị triển khai Nghị định số 03/2023/NĐ-CP của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và của Bộ trưởng Bộ Công Thương về công tác cán bộ của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia
Bộ Công Thương phát động Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên tiếp và làm việc với Bí thư Tỉnh ủy Vân Nam, Trung Quốc
Gặp mặt truyền thống cựu cán bộ Đoàn thanh niên Bộ Công Thương các thời kỳ
Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN hẹp lần thứ 29
Bộ Công Thương ra mắt Hệ thống truy xuất nguồn gốc xúc tiến thương mại áp dụng công nghệ chuỗi khối