Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2025: Chọn lựa hướng đi cho tương lai
Thứ ba, 14-6-2022AsemconnectVietnam - Nhóm đặc trách cao cấp (HLTF) về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2025 bắt đầu đi vào hoạt động. HLTF đã họp nhóm lần đầu tiên vào đầu tháng 4/2022.
Nhóm đặc trách cao cấp (HLTF) về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2025 bắt đầu đi vào hoạt động. HLTF đã họp nhóm lần đầu tiên vào đầu tháng 4/2022, thảo luận kế hoạch công tác năm 2022, quy trình nghị sự (RoP) của HLTF và các nội dung cốt lõi.
Điều chỉnh cách tiếp cận
Sự hình thành của ASEAN vào năm 1967 là do nhu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia của các quốc gia thành viên (AMS) chống lại các cường quốc trong Chiến tranh Lạnh sau khi phi thực dân hóa. Vào cuối những năm 1980, ASEAN đã bắt đầu tập trung vào hợp tác kinh tế, nhằm củng cố hòa bình khu vực với sự thịnh vượng kinh tế. Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) được thành lập vào năm 1992, trong khi vào năm 2003, mục tiêu hướng tới hợp tác toàn diện.
Hiện hợp tác ASEAN đang ở ngã ba đường. Trong khi các nước thành viên tiếp tục chứng kiến những ảnh hưởng xấu của đại dịch Covid-19, căng thẳng địa chính trị đang làm gia tăng áp lực và biến đổi khí hậu đang trở thành một thách thức mang tính hệ thống. Do đó, các nhà hoạch định chính sách cần xem xét 3 xu hướng lớn - chủ nghĩa dân tộc gia tăng, địa chính trị xấu đi và số hóa ngày càng tăng - sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng Cộng đồng ASEAN trong tương lai. Xu hướng chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy nổi lên với cuộc trưng cầu dân ý về Brexit của Vương quốc Anh và quyết định của Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong khi đại dịch Covid-19 gia tăng nhu cầu tiêm chủng cho dân số đã trở thành ưu tiên của nhiều quốc gia. Gần đây, một số quốc gia đã thực hiện kiểm soát xuất khẩu các nguồn cung cấp thực phẩm thiết yếu để giảm thiểu áp lực lạm phát và chuỗi cung ứng trong nền kinh tế nội địa của họ.
Cạnh tranh địa chính trị được thúc đẩy bởi chiến tranh thương mại, đối thủ công nghệ và cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine, đang gia tăng, khiến triển vọng kinh tế toàn cầu bị lung lay. Đồng thời, các hình thức hợp tác toàn cầu và khu vực, chẳng hạn như Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương (IPEF) và các thỏa thuận Bộ tứ QUAD (Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia), đang gây áp lực lên khả năng của ASEAN trong việc đưa ra một hình thức hợp tác khu vực gắn kết và làm phức tạp kiến trúc an ninh của khu vực.
Một phần, đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy việc áp dụng nhanh chóng các giải pháp kỹ thuật số của nhiều xã hội và ngành công nghiệp. Các dịch vụ như giáo dục và chăm sóc sức khỏe chủ yếu chuyển sang trực tuyến, làm việc tại nhà đã trở thành “điều bình thường mới” vào năm 2020-2021 và các mô hình kinh doanh kỹ thuật số đã xuất hiện để duy trì hoạt động của các công ty. Ở các mức độ khác nhau, các chính phủ khu vực đã áp dụng công nghệ kỹ thuật số để quản lý sự lây lan của dịch bệnh. Trong khi những phát triển này làm nổi bật sự bất bình đẳng trong tiếp cận kỹ thuật số của xã hội, mang lại tiềm năng tăng trưởng đáng kể.
Điều đó nói lên rằng, đã đến lúc các nhà hoạch định chính sách cần nghĩ đến một cách tiếp cận mới để xây dựng Cộng đồng ASEAN. Điều chỉnh cách tiếp cận để phù hợp với các xu hướng lớn của quốc gia và toàn cầu, các nước thành viên nên thực hiện cách tiếp cận theo chủ đề thay vì theo lĩnh vực đối với hợp tác khu vực. Với chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy, các nước thành viên ASEAN thúc đẩy hợp tác lấy con người làm trung tâm. Việc tăng cường tính nhất quán trong quy định để khai thác tiềm năng của chuyển đổi kỹ thuật số và thu hẹp bất bình đẳng xã hội là cần thiết để đáp ứng nhu cầu số hóa ngày càng tăng. Những thách thức này đòi hỏi một hình thức quản trị hợp tác mới trong đó nhiều cơ quan Chính phủ phải làm việc để hướng tới các kết quả chung. Mặc dù cách tiếp cận mới sẽ thể hiện nỗ lực nghiêm túc, liên tục của ASEAN đối với việc xây dựng cộng đồng, nhưng nó cũng sẽ duy trì sự phù hợp của tổ chức khi đối mặt với các cơ chế khu vực có khả năng cạnh tranh như IPEF mới ra mắt.
Khẳng định vai trò trung tâm
Các nước ASEAN sẽ làm cho hợp tác khu vực phù hợp với người dân bằng cách hướng tới thu hẹp khoảng cách trong khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu, chẳng hạn như giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đại dịch đã làm trầm trọng thêm sự phân chia giáo dục giữa học sinh từ các hộ gia đình có thu nhập cao và thấp do khả năng tiếp cận công nghệ không bình đẳng, dẫn đến những thiệt hại lớn về học tập và ảnh hưởng đến tiềm năng thu nhập trong tương lai của những người nghèo và dễ bị tổn thương trong tất cả các nước ASEAN. Tương tự, việc đảm bảo an ninh lương thực cho người nghèo của ASEAN là rất quan trọng trong bối cảnh sự gián đoạn chuỗi cung ứng ngày càng tồi tệ. ASEAN sẽ ưu tiên tạo thuận lợi thương mại và khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng để khắc phục sự phụ thuộc vào nguồn cung ứng với các sản phẩm trung gian và cuối cùng.
Các nước ASEAN có thể đẩy mạnh hợp tác trong chuyển đổi số bằng cách tăng cường kết nối kỹ thuật số, chuẩn hóa các quy định và đầu tư vào đào tạo để nâng cao năng suất. Mặc dù các hoạt động trực tuyến có thể giảm khi đại dịch rút đi, nhưng một số lĩnh vực như công việc kết hợp, thương mại điện tử, y tế điện tử, thanh toán điện tử và tự động hóa hải quan sẽ ngày càng phù hợp. ASEAN, ở cấp khu vực, cho đến nay đã bắt tay vào hợp tác kỹ thuật số theo cách thức từng phần để tạo thuận lợi thương mại, thương mại điện tử và các lĩnh vực khác, nhưng vẫn chưa thực hiện trên một thị trường kỹ thuật số duy nhất. Khi chuyển đổi kỹ thuật số diễn ra trên nhiều lĩnh vực, một cách tiếp cận toàn diện về tiêu chuẩn kỹ thuật số, luồng dữ liệu, an ninh mạng và thương mại kỹ thuật số cần phải được phát triển trong tương lai.
Cuối cùng, hợp tác khu vực ASEAN cần cố gắng mang lại tính bền vững và “nền kinh tế xanh” để giải quyết các rủi ro biến đổi khí hậu. Mặc dù Khuôn khổ nền kinh tế tuần hoàn và Phân loại ASEAN về Tài chính bền vững đang được nỗ lực không ngừng, nhưng cần nhiều hơn nữa về mặt thích ứng và giảm thiểu, để hỗ trợ các cam kết của các nước ASEAN đối với Thỏa thuận Paris và các mục tiêu phát thải ròng bằng 0. Lộ trình trung hòa cacbon ASEAN, khuyến khích khử cacbon trong ngành điện, giảm sử dụng than, tăng cường năng lượng tái tạo và chuyển giao công nghệ cacbon thấp, sẽ là một công cụ hữu ích.
Đã đến lúc các nhà hoạch định chính sách ASEAN thực hiện cách tiếp cận theo chủ đề đối với hợp tác khu vực, ưu tiên các chương trình nghị sự lấy con người làm trung tâm, kết nối kỹ thuật số và nền kinh tế xanh. Mặc dù điều này có thể cần một hình thức quản trị hợp tác mới, việc quản lý xuyên ngành của các nước ASEAN về tác động bất lợi của đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy nhiều chính phủ đi theo hướng như vậy. ASEAN có thể xây dựng dựa trên điều này để đạt được các kết quả nhất quán của khu vực trong các lĩnh vực.
Nguồn: congthuong.vn/tam-nhin-cong-dong-asean-sau-nam-2025-chon-lua-huong-di-cho-tuong-lai-180211.html
Điều chỉnh cách tiếp cận
Sự hình thành của ASEAN vào năm 1967 là do nhu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia của các quốc gia thành viên (AMS) chống lại các cường quốc trong Chiến tranh Lạnh sau khi phi thực dân hóa. Vào cuối những năm 1980, ASEAN đã bắt đầu tập trung vào hợp tác kinh tế, nhằm củng cố hòa bình khu vực với sự thịnh vượng kinh tế. Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) được thành lập vào năm 1992, trong khi vào năm 2003, mục tiêu hướng tới hợp tác toàn diện.
Hiện hợp tác ASEAN đang ở ngã ba đường. Trong khi các nước thành viên tiếp tục chứng kiến những ảnh hưởng xấu của đại dịch Covid-19, căng thẳng địa chính trị đang làm gia tăng áp lực và biến đổi khí hậu đang trở thành một thách thức mang tính hệ thống. Do đó, các nhà hoạch định chính sách cần xem xét 3 xu hướng lớn - chủ nghĩa dân tộc gia tăng, địa chính trị xấu đi và số hóa ngày càng tăng - sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng Cộng đồng ASEAN trong tương lai. Xu hướng chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy nổi lên với cuộc trưng cầu dân ý về Brexit của Vương quốc Anh và quyết định của Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong khi đại dịch Covid-19 gia tăng nhu cầu tiêm chủng cho dân số đã trở thành ưu tiên của nhiều quốc gia. Gần đây, một số quốc gia đã thực hiện kiểm soát xuất khẩu các nguồn cung cấp thực phẩm thiết yếu để giảm thiểu áp lực lạm phát và chuỗi cung ứng trong nền kinh tế nội địa của họ.
Cạnh tranh địa chính trị được thúc đẩy bởi chiến tranh thương mại, đối thủ công nghệ và cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine, đang gia tăng, khiến triển vọng kinh tế toàn cầu bị lung lay. Đồng thời, các hình thức hợp tác toàn cầu và khu vực, chẳng hạn như Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương (IPEF) và các thỏa thuận Bộ tứ QUAD (Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia), đang gây áp lực lên khả năng của ASEAN trong việc đưa ra một hình thức hợp tác khu vực gắn kết và làm phức tạp kiến trúc an ninh của khu vực.
Một phần, đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy việc áp dụng nhanh chóng các giải pháp kỹ thuật số của nhiều xã hội và ngành công nghiệp. Các dịch vụ như giáo dục và chăm sóc sức khỏe chủ yếu chuyển sang trực tuyến, làm việc tại nhà đã trở thành “điều bình thường mới” vào năm 2020-2021 và các mô hình kinh doanh kỹ thuật số đã xuất hiện để duy trì hoạt động của các công ty. Ở các mức độ khác nhau, các chính phủ khu vực đã áp dụng công nghệ kỹ thuật số để quản lý sự lây lan của dịch bệnh. Trong khi những phát triển này làm nổi bật sự bất bình đẳng trong tiếp cận kỹ thuật số của xã hội, mang lại tiềm năng tăng trưởng đáng kể.
Điều đó nói lên rằng, đã đến lúc các nhà hoạch định chính sách cần nghĩ đến một cách tiếp cận mới để xây dựng Cộng đồng ASEAN. Điều chỉnh cách tiếp cận để phù hợp với các xu hướng lớn của quốc gia và toàn cầu, các nước thành viên nên thực hiện cách tiếp cận theo chủ đề thay vì theo lĩnh vực đối với hợp tác khu vực. Với chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy, các nước thành viên ASEAN thúc đẩy hợp tác lấy con người làm trung tâm. Việc tăng cường tính nhất quán trong quy định để khai thác tiềm năng của chuyển đổi kỹ thuật số và thu hẹp bất bình đẳng xã hội là cần thiết để đáp ứng nhu cầu số hóa ngày càng tăng. Những thách thức này đòi hỏi một hình thức quản trị hợp tác mới trong đó nhiều cơ quan Chính phủ phải làm việc để hướng tới các kết quả chung. Mặc dù cách tiếp cận mới sẽ thể hiện nỗ lực nghiêm túc, liên tục của ASEAN đối với việc xây dựng cộng đồng, nhưng nó cũng sẽ duy trì sự phù hợp của tổ chức khi đối mặt với các cơ chế khu vực có khả năng cạnh tranh như IPEF mới ra mắt.
Khẳng định vai trò trung tâm
Các nước ASEAN sẽ làm cho hợp tác khu vực phù hợp với người dân bằng cách hướng tới thu hẹp khoảng cách trong khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu, chẳng hạn như giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đại dịch đã làm trầm trọng thêm sự phân chia giáo dục giữa học sinh từ các hộ gia đình có thu nhập cao và thấp do khả năng tiếp cận công nghệ không bình đẳng, dẫn đến những thiệt hại lớn về học tập và ảnh hưởng đến tiềm năng thu nhập trong tương lai của những người nghèo và dễ bị tổn thương trong tất cả các nước ASEAN. Tương tự, việc đảm bảo an ninh lương thực cho người nghèo của ASEAN là rất quan trọng trong bối cảnh sự gián đoạn chuỗi cung ứng ngày càng tồi tệ. ASEAN sẽ ưu tiên tạo thuận lợi thương mại và khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng để khắc phục sự phụ thuộc vào nguồn cung ứng với các sản phẩm trung gian và cuối cùng.
Các nước ASEAN có thể đẩy mạnh hợp tác trong chuyển đổi số bằng cách tăng cường kết nối kỹ thuật số, chuẩn hóa các quy định và đầu tư vào đào tạo để nâng cao năng suất. Mặc dù các hoạt động trực tuyến có thể giảm khi đại dịch rút đi, nhưng một số lĩnh vực như công việc kết hợp, thương mại điện tử, y tế điện tử, thanh toán điện tử và tự động hóa hải quan sẽ ngày càng phù hợp. ASEAN, ở cấp khu vực, cho đến nay đã bắt tay vào hợp tác kỹ thuật số theo cách thức từng phần để tạo thuận lợi thương mại, thương mại điện tử và các lĩnh vực khác, nhưng vẫn chưa thực hiện trên một thị trường kỹ thuật số duy nhất. Khi chuyển đổi kỹ thuật số diễn ra trên nhiều lĩnh vực, một cách tiếp cận toàn diện về tiêu chuẩn kỹ thuật số, luồng dữ liệu, an ninh mạng và thương mại kỹ thuật số cần phải được phát triển trong tương lai.
Cuối cùng, hợp tác khu vực ASEAN cần cố gắng mang lại tính bền vững và “nền kinh tế xanh” để giải quyết các rủi ro biến đổi khí hậu. Mặc dù Khuôn khổ nền kinh tế tuần hoàn và Phân loại ASEAN về Tài chính bền vững đang được nỗ lực không ngừng, nhưng cần nhiều hơn nữa về mặt thích ứng và giảm thiểu, để hỗ trợ các cam kết của các nước ASEAN đối với Thỏa thuận Paris và các mục tiêu phát thải ròng bằng 0. Lộ trình trung hòa cacbon ASEAN, khuyến khích khử cacbon trong ngành điện, giảm sử dụng than, tăng cường năng lượng tái tạo và chuyển giao công nghệ cacbon thấp, sẽ là một công cụ hữu ích.
Đã đến lúc các nhà hoạch định chính sách ASEAN thực hiện cách tiếp cận theo chủ đề đối với hợp tác khu vực, ưu tiên các chương trình nghị sự lấy con người làm trung tâm, kết nối kỹ thuật số và nền kinh tế xanh. Mặc dù điều này có thể cần một hình thức quản trị hợp tác mới, việc quản lý xuyên ngành của các nước ASEAN về tác động bất lợi của đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy nhiều chính phủ đi theo hướng như vậy. ASEAN có thể xây dựng dựa trên điều này để đạt được các kết quả nhất quán của khu vực trong các lĩnh vực.
Nguồn: congthuong.vn/tam-nhin-cong-dong-asean-sau-nam-2025-chon-lua-huong-di-cho-tuong-lai-180211.html
Việt Nam đóng góp, ủng hộ sáng kiến nâng hiệu quả hoạt động của ASEAN
Kỳ vọng cao vào chương trình nghị sự ASEAN năm 2023
Truyền thông châu Âu nêu bật vai trò Việt Nam trong hợp tác EU-ASEAN
Hội nghị thượng đỉnh Doanh nhân nữ ASEAN 2022 tại Hà Nội
Thúc đẩy hợp tác ASEAN-EU lên tầm cao mới
AEM 54 tập trung vào thúc đẩy kinh tế với các đối tác của ASEAN
Phú Thọ tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư với các doanh nghiệp Mỹ
AMM-55: ASEAN Hành động-cùng ứng phó các thách thức chung
Áp biện pháp chống lẩn tránh thuế đối với đường mía từ 5 nước ASEAN
Vai trò then chốt của ASEAN trong việc thúc đẩy an ninh lương thực toàn cầu
ASEAN - Vương quốc Anh đối thoại quan chức cấp cao đầu tiên để tăng cường hợp tác
Việt Nam và Mexico xúc tiến hợp tác thương mại, kinh tế và đầu tư
ASEAN cam kết tăng cường bảo vệ người tiêu dùng
ATIGA 2.0: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN được nâng cấp và hướng tới tương lai
Xuất khẩu cá tra sang thị trường Brazil giảm 2 con số
Tính đến giữa tháng 2/2023, xuất khẩu cá tra Việt Nam sang thị trường Brazil đạt giá trị 10,5 triệu USD, giảm 51% so với cùng kỳ năm ...Điểm tên 9 mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng dương 2 tháng ...
Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 2 và ...