Tổng hợp tình hình Cộng đồng kinh tế ASEAN trong tháng 1/2017
Thứ ba, 31-1-2017AsemconnectVietnam - Trong tháng 1/2017, tin tức về Cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập cuối năm ngoái khá sôi động
Cộng đồng kinh tế ASEAN còn nhiều thách thức
Nằm trong khuôn khổ Cộng đồng ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vừa tròn 1 năm thành lập. Tuy nhiên nhiều chuyên gia đánh giá các nước thành viên chưa tận dụng hết lợi thế để hội nhập và phát triển.
Trang Channel News Asia dẫn một khảo sát mới đây của Liên đoàn Doanh nghiệp Singapore cho thấy có đến 74% doanh nghiệp được hỏi cho biết họ không thấy được lợi ích từ AEC. Chủ tịch Viện Các vấn đề quốc tế của Singapore Simon Tay cho rằng chỉ có những công ty lớn mới tận dụng được lợi thế, trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn đối mặt với nhiều vấn đề như tình trạng quan liêu và rào cản luật lệ, dù hàng rào thuế quan đã được dỡ bỏ.
“Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không chỉ ở Singapore mà còn ở nước khác, đôi khi chỉ lo tập trung phòng vệ. Họ không muốn để người khác vào vì lo sợ không thể cạnh tranh ngay trên sân nhà”, ông nhận xét. Mặt khác, ông Simon Tay cũng nhận định AEC đã thúc đẩy nhiều nền kinh tế nhận ra nhu cầu phải đổi mới sau một năm thành lập, và chính phủ các nước cần trấn an doanh nghiệp rằng AEC sẽ hỗ trợ họ tăng cường khả năng cạnh tranh và hoạt động hiệu quả hơn.
Trong bài phân tích mới đây, tờ Khmer Times cũng nhận định nhiều doanh nghiệp chưa tận dụng được lợi thế từ AEC dù hiện gần 96% thuế giữa các nước ASEAN đã được bãi bỏ. Tờ báo dẫn lời ông Meas Vireak, một nhà sản xuất rượu nho ở tỉnh Pursat, cho hay ông không thấy tác động hay lợi ích gì từ AEC. “Tôi không thấy bất cứ sự khuyến khích hay phương thức nào để mở rộng sản phẩm ra thị trường lớn hơn của AEC. Thậm chí tôi còn không biết ai sẽ có thể giúp chúng tôi”, ông nói.
Ông David Van, Giám đốc điều hành Công ty tư vấn Bower Asia tại Campuchia, cho rằng chính phủ nhiều nước thành viên ASEAN nên phổ biến thêm về lợi ích của AEC cho cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, ông cũng nhìn nhận dòng lưu chuyển hàng hóa giữa các nước vẫn vấp phải biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ một lĩnh vực nào đó trong nước, chẳng hạn lĩnh vực nông nghiệp.
ASEAN trước bài toán cải cách: Tận dụng lợi thế, vượt lên mạnh mẽ
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang điều chỉnh cán cân giữa doanh nghiệp nhà nước và công ty đa quốc gia, nhưng đây là vấn đề rất cần sự khéo léo và tỉnh táo.
Các vấn đề về hội nhập, tái cấu trúc của ASEAN đã được thảo luận tại Hội thảo thương mại, công nghiệp hóa và tái cơ cấu trong cộng đồng ASEAN do Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu châu Á và toàn cầu hóa, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, ĐH Quốc gia Singapore tổ chức ngày 9 và 10-1 tại TP.HCM.
Chấp nhận cải cách cho cuộc chơi lớn
Tại hội thảo, các chuyên gia, học giả đã lấy Việt Nam làm ví dụ thực tiễn cho mối quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp đa quốc gia nước ngoài. Câu chuyện này mang điểm nhấn quan trọng giữa lúc ASEAN ngày càng chứng tỏ vị thế ngày càng tăng đối với các vấn đề chính trị và kinh tế toàn cầu.
Năm 2016 là thời điểm ASEAN bước vào tư thế một cộng đồng, và các quốc gia Đông Nam Á trở thành tâm điểm của những hiệp định thương mại quy mô như Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
“ASEAN chắc chắn sẽ nhìn thấy tác động và tác động vào cục diện mới khi nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, hai nền kinh tế phát triển bùng nổ hiện nay” - TS Vũ Minh Khương tại ĐH Quốc gia Singapore nhận định.
GS Eric D. Ramsletter tại Viện Nghiên cứu phát triển châu Á (Nhật Bản) trình bày về tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp đa quốc gia nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam.
Lấy Việt Nam làm trường hợp nghiên cứu, GS Ramsletter khẳng định từ khi tiến hành cải cách kinh tế, mở cửa năm 1986 đến nay, các doanh nghiệp đa quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong nền kinh tế Việt Nam, mang lại lợi ích xuất khẩu lớn hơn trước đây.
Dữ liệu doanh nghiệp chỉ ra rằng cổ phần của doanh nghiệp nhà nước đã rút lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận nhiều hơn.
Đây sẽ là một hướng đi cần được chú trọng, và đòi hỏi chính phủ các nước ASEAN phải có sự chuẩn bị để tương thích với xu hướng hội nhập hiện nay.
“Bất kể số phận của TPP thế nào hoặc tiềm năng của RCEP ra sao, ASEAN, Nhật Bản cũng như các nước trong khu vực đều tồn tại các hiệp ước thương mại tự do từ trước.
Vì lẽ này, những công ty đa quốc gia sẽ đóng vai trò quan trọng hơn nữa và đòi hỏi các nước cần thực hiện chính sách mở cửa, tạo điều kiện một cách hợp lý cho xu hướng này” - TS Tomoo Kikuchi, giáo sư tại Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, nói với Tuổi Trẻ.
Còn nhiều khó khăn
TS Vũ Minh Khương cho biết thách thức của ASEAN trong quá trình cải cách, tái cơ cấu nằm ở chỗ mỗi nước tồn tại khúc mắc riêng, trong khi thế mạnh của các thành viên cũng khác biệt.
“Ví dụ Việt Nam có mức độ mở cửa và hội nhập rất lớn, nhưng còn gặp khó khăn trên những nước tính đường dài. Indonesia chủ trương thu hút nhân tài mạnh mẽ và rất đáng khen ngợi, song nước này lại có xu hướng khép kín hơn phần còn lại.
Philippines trong khi đó lại có hệ thống chính trị đặc thù. Ngay cả Singapore dù phát triển mạnh nhưng diện tích nhỏ và lại gặp vấn đề về động lực sau khi gần như chạm tới mức độ phát triển cao” - TS Vũ Minh Khương nói.
Các học giả nhìn nhận khả quan về hiệu quả từ sự mở cửa của Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng đưa Việt Nam bắt kịp và trở thành 1 trong 6 nền kinh tế phát triển nhất ASEAN đến năm 2016.
Theo TS Trần Đình Lâm - giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á, để duy trì điều đó cần có sự cố gắng chung, vận động mọi nguồn lực để phát triển nội lực.
“Trước thời TPP chẳng hạn, Việt Nam đã mang tư tưởng mở cửa và hội nhập. Vì vậy trong thời kỳ mới, nội lực vẫn tiếp tục là yếu tố hàng đầu. Điều này bao gồm phát triển con người, nâng cao chất lượng tự thân, phát triển khoa học công nghệ, duy trì môi trường kinh doanh tốt để tạo sức hút và vị thế.
Một điểm quan trọng nữa là Việt Nam cũng như ASEAN cần có môi trường hòa bình để tập trung phát triển kinh tế” - TS Trần Đình Lâm nói.
Tiến sĩ Vũ Minh Khương: Mở cửa để phồn vinh, chứ không chỉ khấm khá
Không nên nghĩ rằng mở cửa bằng mọi cách để tìm nguồn thu từ kinh tế, công ăn việc làm là xong. Mở cửa như vậy chỉ mới khấm khá hơn, chứ chưa thể phồn vinh.
Ở mức độ cao hơn, Việt Nam cũng như ASEAN cần tận dụng lợi thế được tiếp thu trình độ, khoa học kỹ thuật, cách làm của các công ty đa quốc gia để tạo bàn đạp phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Nếu Việt Nam hay ASEAN tạo mọi lợi thế về thuế, chào đón công ty đa quốc gia chỉ để tìm thị trường, việc làm thì dễ lệ thuộc vào họ. Thay vào đó, cần phải biến điều này thành sức mạnh cộng hưởng.
Khi tiếp thu được công nghệ và biến công ty đa quốc gia thành động lực mạnh mẽ để phát triển đội ngũ lao động trình độ cao hơn, xây dựng cơ sở hạ tầng... đó mới là hướng phát triển tối ưu.
Khi chào đón công ty đa quốc gia, việc nhượng bộ hay hỗ trợ họ đến đâu, yêu cầu họ chia sẻ công nghệ gì là một bài toán chính sách rất quan trọng. Muốn giải bài toán ấy cần phải có người tài để thiết lập kế hoạch, thấu hiểu được các công ty nước ngoài, chứ không phải chào đón hoặc nhượng bộ bằng mọi giá.
AEC- lộ rõ năng lực “thượng đài” của doanh nghiệp Việt
Khả năng tận dụng cơ hội khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) hình thành của DN Việt Nam là chưa tốt. Điều đó thể hiện sự “khập khiễng” giữa cam kết hội nhập và năng lực cạnh tranh trong nước.
Chưa tận dụng được cơ hội
Năm 2016 chứng kiến sự tăng trưởng về XK của Việt Nam sang các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản… bất chấp các nước này giảm nhu cầu NK. Tuy nhiên, một thị trường được nhận định là có nhiều cơ hội- thị trường ASEAN - lại liên tiếp giảm sút. Ông Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết, riêng thị trường ASEAN, XK lại có sự giảm sút dù AEC đã được hình thành từ cuối năm 2015 với 96 % tỷ lệ thuế quan được xóa bỏ từ năm 2015.“Điều này thể hiện việc khai thác những cơ hội của chúng ta chưa tốt. Sự sụt giảm về kim ngạch XK giảm tương ứng qua các năm 2014, 2015 và 2016 lần lượt là 10,1%, 4,7% và 4,6%”, ông Trần Tuấn Anh dẫn chứng.
Một nghiên cứu hồi tháng 4-2016 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng chỉ ra, đã có 46,79% DN chủ động tìm hiểu thông tin về AEC nhưng có tới 94% DN biết tới AEC và chỉ có chưa đầy 17% biết rõ về các cam kết trong AEC. Không chỉ dừng ở đó, số DN tận dụng được các cơ hội từ AEC thời gian qua còn thấp hơn nữa. Thiếu thông tin chính xác và toàn diện về AEC là một trong những rào cản lớn nhất khiến các DN Việt Nam không tận dụng được các cam kết này”, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc trung tâm WTO và hội nhập thuộc VCCI đã nhận xét như vậy.
Không chỉ vậy, việc tận dụng cơ hội từ AEC chưa tốt còn có nguyên nhân do sức cạnh tranh hàng hóa Việt Nam còn kém. Mặt hàng dệt may là một ví dụ. Sản phẩm dệt may của Việt Nam XK sang ASEAN còn khá khiêm tốn. Ông Lê Tiến Trường, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã thừa nhận: “Đúng thật, việc khai thác thị trường AEC còn gặp nhiều khó khăn bởi đây là những quốc gia còn trống về thị trường, có dân số tương đối lớn nhưng cũng là quốc gia sản xuất dệt may tương đối mạnh”. Theo đó, mặc dù thị trường ASEAN rộng lớn và có nhiều thuận lợi nhưng lại tồn tại nhiều nước có ngành dệt may mạnh như Thái Lan, Indonesia và Myanmar cũng đang hướng đến XK dệt may. Những nước này có lực lượng sản xuất tương đối tốt nên Việt Nam càng khó cạnh tranh hơn với các nước này tại khu vực ASEAN. Do vậy, năm 2016, XK dệt may sang ASEAN chỉ khoảng 300 triệu USD.
Hơn nữa, do đặc thù, bán hàng, sản xuất bằng thương hiệu khác nên việc XK trực tiếp sang các quốc gia này, theo ông Trường, khó có thể nhìn thấy sự thay đổi rõ ràng. Trên thực tế, vẫn nhìn thấy hàng Việt Nam bán ở các nước ASEAN như Singapore, Thái Lan nhưng con số này lại không đính trực tiếp được vào kim ngạch giữa Việt Nam với Thái Lan, Singapore hay bất cứ nước nào khác.
Năng lực “đấm đá” còn yếu
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh bình luận, cơ hội của AEC là có nhưng DN không tận dụng được, đó là sự khập khiễng giữa cam kết hội nhập và năng lực cạnh tranh trong nước. AEC đã cho thấy năng lực cạnh tranh của DN như thế nào, năng lực hội nhập của DN thấp như thế nào. Đây là vấn đề cần phải thu hẹp. “AEC cho thấy sự yếu kém của chúng ta giống như anh võ sỹ lúc chưa thượng đài đứng dưới vỗ tay nói mạnh nhưng khi thượng đài mới thấy năng lực “đấm đá” của mình mạnh ở đâu và yếu ở đâu”, ông Doanh ví von.
Một vấn đề khiến ông Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban Tư vấn chính sách VCCI lo ngại là khả năng của DN Việt Nam để khai thác thị trường ASEAN ngày càng giảm trong khi khả năng khai thác của DN ASEAN đối với thị trường Việt Nam lại ngược lại. Đây cũng là vấn đề được ông Doanh đặt ra: “Trong khi Việt Nam không xuất được sang các nước ASEAN thì các nước này lại đẩy mạnh XK sang thị trường nước ta, bởi thị trường lúc này không còn là của riêng Việt Nam mà là thị trường chung của 10 nước ASEAN”.
Trên thực tế, hàng hóa của ASEAN có chất lượng, giá cả hợp lý, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú. Các DN của các nước ASEAN có chiến lược tiếp thị tốt, chiến lược sản phẩm tốt nên đã thâm nhập thị trường Việt Nam một cách dễ dàng. Trong khi đó, hàng hóa Việt Nam chất lượng kém, kể cả hàng nông sản lẫn hàng công nghiệp, mẫu mã không đẹp, chủng loại nghèo nàn, đặc biệt là thương hiệu không có, chất lượng kém, giá cả không cạnh tranh. Chưa kể, chiến lược tiếp thị, chiến lược sản phẩm của DN Việt cũng kém. Đây là bức tranh tương phản giữa Việt Nam và các nước ASEAN thể hiện ở năng lực cạnh tranh của sản phẩm và năng lực cạnh tranh của DN Việt còn kém.
Có thể thấy, bức tranh tương phản này đã được nhìn thấy từ trước nhưng đến khi AEC được hình thành thì vấn đề về năng lực cạnh tranh của hàng hóa, DN Việt Nam càng được bộc lộ rõ hơn. Chính vì thế, “đòi có sự quan tâm để điều chỉnh giúp DN hội nhập tốt hơn” là nhiệm vụ được ông Trần Tuấn Anh nhắc đến bằng cách như nỗ lực đẩy mạnh việc giảm bới chi phí, thời gian, tiền bạc của DN trong kinh doanh…
ASEAN nên ứng phó thế nào khi thế giới ngày càng rời xa xu hướng toàn cầu hóa?
Sau gần 70 năm tự do hóa thương mại, một loạt các sự kiện gần đây (trong đó điển hình là Brexit ở Anh và Donald Trump chiến thắng cuộc bầu cử Mỹ) cho thấy làn sóng toàn cầu hóa đang dịch chuyển
Trước hết, với vai trò là một phần quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội, thương mại quốc tế thực chất đã ngừng tăng trưởng trong suốt thập kỷ qua. Thứ hai, động lực của tự do hóa thương mại đa phương đã vấp phải sự thất bại của vòng đàm phán Doha với rất ít hi vọng hồi sinh. Thậm chí ngay cả các thỏa thuận thương mại khu vực đôi khi được xem là sự thay thế điển hình của tự do hóa đa phương cũng đang bị tác động đáng kể, ngay cả ở Mỹ.
ASEAN nên hướng tới đâu?
Khi nói đến vấn đề hội nhập kinh tế của ASEAN, thì Liên minh châu Âu là một mục tiêu lý tưởng để hướng đến nhưng vẫn không phải là mô hình chính. Có một vài lý do mang tính hai chiều được đưa ra.
Đầu tiên, ASEAN hướng tới một cơ sở sản xuất toàn khu vực nhằm thúc đẩy các mặt hàng di động, dịch vụ, lao động tay nghề cao và vốn. Tuy nhiên ASEAN không hướng tới thành lập một Liên minh Hải quan (có nghĩa là tất cả các nước thành viên áp dụng cùng một mực thuế suất hoặc thuế suất ưu đãi trong nội bô, và đối xử tương tự, thường là thuế suất cao hơn cho các quốc gia ngoài khối) hoặc một thị trường tiền tệ đơn nhất (nơi mà các quốc gia cùng chia sẻ trách nhiệm tài chính và tiền tệ nhằm duy trì sự ổn định giá trị của đồng tiền chung trong khối).
Điều này là do cách biệt về trình độ phát triển trong ASEAN. Chẳng hạn, thu nhập bình quân đầu người của Singapore gấp khoảng 46 lần của Campuchia trong năm 2015. Cách biệt ở khối EU ở mức thấp hơn; thu nhập bình quân đầu người của Luxembourg chỉ gấp khoảng 15 lần của Bulgaria (còn Đức thì gấp khoảng 6 lần Bulgaria). Khoảng cách phát triển còn lớn hơn nữa khi cộng thêm chỉ số phát triển con người, môi trường kinh doanh thuận lợi, chỉ số hoạt động logistics, và các chỉ số đánh giá phát triển khác.
Thứ hai, khác với EU có thể tự hình thành vòng khép kín (theo nghĩa là nước thành viên Đức cũng là nguồn cung lớn nhất về thương mại, đầu tư, và công nghệ ở EU), ASEAN không thể phụ thuộc vào chính nó. Khi là một thực thể hội nhập khu vực đơn nhất thì ASEAN vẫn phải dựa vào Nhật Bản và Hàn Quốc, thậm chí mở rộng cả Trung Quốc, như là nguồn đầu mối của thương mại, đầu tư và công nghệ.
ASEAN đang có hướng đi tốt theo nghĩa nó vẫn giữ vững tiến trình hội nhập thương mại về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, tuy nhiên không nhằm mục tiêu hướng tới hội nhập tài chính hay tiền tệ khi xét tới mức cách biệt về trình độ phát triển giữa các nước thành viên.
Tiếp tục tiến về phía trước
Vậy thì làm thế nào để thúc đẩy chương trình hội nhập của ASEAN? ASEAN vẫn duy trì việc lập kế hoạch hội nhập cho tương lai. Điển hình như việc thành lập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) năm 1992 và Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) cũng như Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) vào năm 2009. Gần nhất, ASEAN cũng thiết lập các FTA “cộng một” với những đối tác thương mại chính (Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và New Zealand), đa số các hiệp định này có hiệu lực vào tháng Một năm 2010.
Tuy nhiên, dù trải qua quá trình hội nhập đầy tiến bộ thì ASEAN vẫn có khả năng rời vào bẫy “hội nhập hời hợt”. Tỷ trọng thương mại nội khối ASEAn giữa các thành viên chỉ tăng từ 22% vào năm 2000 lên 24% vào năm 2015.
Có hai cách để thúc đẩy tiến trình hội nhập của ASEAN. Thứ nhất, mỗi nước Đông Nam Á nên tập trung phát triển các ngành sản xuất làm nền tảng cho kinh tế quốc gia, đồng thời duy trì tỉ trọng của ngành sản xuất trong tổng thể GDP ở mức 25%. Cùng với sự gia tăng dân số ở khu vực Đông Nam Á, việc phát triển ngành sản xuất là rất quan trọng vì nó có thể tạo ra lượng việc làm khổng lồ cũng như đáp ứng nguồn cung công nghệ và đổi mới.
Với các nước đang phát triển như Indonesia, ngành sản xuất mang lại cho đối tượng học sinh tốt nghiệp trung học - một thành phần lớn trong thị trường lao động ở nước này, mức thu nhập cao hơn so với lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ. Thêm nữa, thậm chí các nước phát triển như Đức, Nhật và Singapore vốn có thể chuyển đổi thành phần kinh tế từ sản xuất sang dịch vụ một cách dễ dàng cũng mong muốn duy trì tỉ trọng lĩnh vực sản xuất trong tổng GDP ở mức 26-28% bởi lẽ họ nhận thức rõ ngành sản xuất mang lại việc làm và cả sự đổi mới.
Thứ hai, các nước Đông Nam Á tham gia ASEAN để cải thiện quan hệ thương mại và đầu tư với nhóm các đối tác thương mại chính. Trong khi tỷ trọng thương mại của ASEAN so với thế giới chỉ tăng từ 6% năm 2000 lên 8% năm 2015, thì tỷ trọng thương mại của 6 đối tác chính (Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand) so với thế giới đã tăng từ 16% lên 25% trong cùng giai đoạn trên. Nếu mong muốn nâng cao tỷ trọng thương mại so với thế giới thì ASEAN nên tích cực tận dụng các FTA ASEAN+1 ký với những đối tác thương mại chính hiện đang có hiệu lực, và có thể bao gồm cả Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực kết nối 10 quốc gia ASEAN với 6 nước hiện đã ký FTA nêu trên.
Dù vẫn duy trì các bước tiến theo chương trình hội nhập, ASEAN vẫn còn nhiều vấn đề còn tồn đọng. ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn trong việc đơn giản hóa quy tắc xuất xứ đồng thời cải thiện tính minh bạch của các Biện pháp Phi thuế (NTMs), song song với việc phát triển dịch vụ (vận tải, logistics, tài chính, Công nghệ thông tin truyền thông) và đầu tư hỗ trợ phát triển ngành sản xuất.
Trong khi xu hướng toàn cầu hiện nay là hạn chế việc hội nhập kinh tế thì Đông Nam Á vẫn tiếp tục duy trì tiến trình này, đồng thời vẫn sẽ giữ vị trí là một trong những khu vực phát triển nhanh trên thế giới với mức độ phát triển kinh tế trung bình là 4.6% trong năm 2017. Những yếu tố quan trọng trong tốc độ phát triển cao hiện nay là việc mở cửa để thu hút đầu tư vào Myanmar, Lào và Campuchia; cùng với các cam kết mạnh mẽ của chính phủ Indonesia về việc tăng phân bổ ngân sách vào cơ sở hạ tầng; cũng như cải thiện tổng thể môi trường kinh doanh thuận lợi ở khu vực.
Theo Lili Yan Ing - TM
Lili Yan Ing là một chuyên gia kinh tế cao cấp tại Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA), đồng thời là chủ nhiệm các dự án về thương mại và đầu tư. Bà cũng là người sáng lập nên ‘The Indonesian Economy’ (IE) - một cộng đồng các nhà kinh tế nổi tiếng đang làm việc tại Indonesia. Tiến sĩ Ing là Cố vấn cao cấp về Thương mại và Đầu tư của Văn phòng Tổng thống nước Cộng hòa Indonesia từ năm 2015-2016. Các quan điểm nêu trên là những góc nhìn cá nhân của bà.
Thách thức trên “sân chơi” AEC
Trong khi hàng hóa Việt Nam khó mở rộng thị phần tại thị trường ASEAN thì các nước trong AEC lại sớm đón trước cơ hội, tận dụng lợi thế về thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường nước ta.
“Lấm lưng” trên sân nhà
Chuyện doanh nghiệp (DN) nội địa “lấm lưng, trắng bụng” trên sân nhà và Việt Nam trở thành “vùng trũng” tiêu thụ hàng hóa ASEAN đã không còn là cảnh báo...
Nhập khẩu nông sản tăng “chóng mặt”
Nhập khẩu nông sản tăng “chóng mặt”
Một năm gia nhập AEC, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của nước ta không những không khởi sắc mà còn sụt giảm. Trong khi đó, kim ngạch và sản lượng nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường ASEAN lại không ngừng tăng lên. Tính chung 11 tháng năm 2016, kim ngạch nhập khẩu tăng 20,2% so cùng kỳ năm 2015, đạt mức hơn 1,4 tỷ USD, trong đó tăng “đỉnh điểm” phải kể đến hàng rau quả với mức tăng 84,9%, hàng thủy sản tăng 52,2%. Riêng nhập khẩu hoa quả từ Thái-lan tăng 88%. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu của hai mặt hàng này vào ASEAN chỉ tăng lần lượt 14,3% và 7,5%. Sự chênh lệch quá lớn của kim ngạch xuất, nhập khẩu các mặt hàng này có thể thấy một mặt do nhu cầu tiêu thụ, mặt khác do chất lượng sản phẩm nhiều loại hàng hóa nhập khẩu được đánh giá cao hơn hàng trong nước, nhất là trong bối cảnh hàng nông sản nước ta đang đối mặt nhiều nguy cơ về an toàn vệ sinh thực phẩm. Đơn cử các mặt hàng rau quả, vào các siêu thị tại những đô thị lớn, không khó để nhận thấy rau quả nhập khẩu ngập tràn, chưa kể các cửa hàng nhỏ lẻ bán trái cây nhập khẩu cũng mọc lên như nấm gần đây. Chị Nguyễn Thị Hòa (Cầu Giấy, Nghĩa Tân, Hà Nội) cho biết: “Nếu phải lựa chọn giữa trái cây Việt Nam và trái cây của Thái-lan, chắc chắn tôi sẽ mua hàng Thái-lan vì mức giá chỉ nhỉnh hơn hoa quả trong nước chút ít, nhưng yên tâm hơn nhiều về chất lượng, nhất là an toàn vệ sinh thực phẩm”.
Không chỉ người tiêu dùng, cả những nhà nghiên cứu, tư vấn chính sách nông nghiệp cũng khẳng định do cơ cấu ngành hàng sản xuất và xuất khẩu của khối ASEAN có nhiều điểm tương đồng, trong khi sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam còn hạn chế so với các nước trong khu vực cho nên khi tham gia vào AEC, nước ta rất dễ trở thành “vùng trũng” nhập khẩu. TS Đặng Kim Khôi, Giám đốc Trung tâm Tư vấn chính sách nông nghiệp (Viện Chính sách và chiến lược Phát triển nông nghiệp - nông thôn) phân tích: Thái-lan là đối thủ cạnh tranh lớn trên mọi lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam như: lúa gạo, mía đường, chăn nuôi, rau quả, thủy sản. Trong sản xuất, quốc gia này đã chủ động áp dụng, đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, được nhiều nước trên thế giới công nhận. Trong khi đó, nông sản Việt Nam còn yếu trong việc bảo đảm các yếu tố này. Do đó, nông sản Việt Nam đều gặp khó khi cạnh tranh, thậm chí có nguy cơ thu hẹp thị phần trong nước và trên một số thị trường ASEAN, khi yêu cầu của người tiêu dùng về an toàn và chất lượng sản phẩm ngày càng cao hơn. Cụ thể nhất là gạo, hàng xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là loại gạo phẩm cấp thấp, chỉ qua xay xát, chưa chế biến sâu. Trong khi đó, thị trường trong nước đang có xu hướng nhập khẩu gạo chất lượng cao, gạo ngon từ Lào, Cam-pu-chia và Thái-lan.
Bên cạnh các mặt hàng nông sản truyền thống, TS Đặng Kim Khôi còn phân tích chi tiết, chỉ ra nguy cơ các DN trong nước mất thị trường nội địa ở các ngành hàng khác như mía đường và thịt gà. Với ngành mía đường, trong tương lai, khi thuế nhập khẩu mía đường cắt giảm, Việt Nam sẽ có xu hướng tăng nhập khẩu, đáp ứng thị trường trong nước. Mặc dù nước ta phát triển ngành mía đường từ rất lâu, nhưng sản xuất vẫn theo truyền thống, manh mún, nhỏ lẻ với chi phí đầu vào cao khiến giá mía và giá đường luôn ở mức cao so với thế giới. Chi phí sản xuất tại các nhà máy đường của Việt Nam ở mức 0,63 USD/kg, trong khi Thái-lan và Lào chỉ 0,38 USD/kg. Đối với ngành chăn nuôi cũng vậy, so sánh giá thành tại cổng trại, hiện nay người chăn nuôi gà Việt Nam đang thua lỗ, không cạnh tranh được với gà nhập khẩu. Năm 2014, Thái-lan xuất khẩu thịt gia cầm sang Việt Nam đã đạt kim ngạch hơn 398 nghìn USD, gấp 10 lần so năm 2013. Do đó, khi ngành hàng này nằm trong đối tượng cắt giảm thuế, chắc chắn lượng nhập khẩu sẽ tăng mạnh hơn nữa.
Thị trường bán lẻ dần bị “thôn tính”
Không riêng nông sản, thị trường trong nước cũng chứng kiến sự “đổ bộ” hàng tiêu dùng từ Thái-lan, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a… Ở cửa hàng tạp hóa hay siêu thị tại các thành phố lớn, rất dễ tìm được những sản phẩm từ ti-vi, tủ lạnh, nồi cơm điện, quạt,… đến tăm bông, nước rửa chén, nước giặt, mỹ phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ Thái-lan, Ma-lai-xi-a với giá bán cạnh tranh hơn hẳn. Theo thống kê của Hiệp hội Siêu thị Hà Nội, hiện có hơn 70% hàng điện máy, đồ gia dụng và hơn 45% các mặt hàng hoa quả của Thái-lan được bày bán tại các siêu thị của Hà Nội. Kim ngạch nhập khẩu nhiều mặt hàng từ Thái-lan tăng đột biến trong 11 tháng năm 2016: máy tính, sản phẩm linh kiện tăng 32,7%; điện gia dụng tăng 37,7%; hàng rau quả tăng 88%,... trong khi kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng này của Việt Nam sang Thái-lan ở mức không đáng kể.
Thời gian gần đây, thị trường ô-tô trong nước đã xuất hiện và tràn ngập các dòng xe du lịch do Thái-lan lắp ráp. Số liệu của Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) cho thấy, trong 11 tháng năm 2016, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 98 nghìn xe với kim ngạch 2,1 tỷ USD. Trong đó, nhập khẩu ô-tô từ Thái-lan ở mức cao nhất cả về số lượng và kim ngạch, với hơn 30 nghìn xe, kim ngạch hơn 569 triệu USD. Tính ra, cứ khoảng ba xe ô-tô nhập khẩu nguyên chiếc, có một xe đến từ Thái-lan. Nguyên nhân của mức nhập khẩu khá cao này là do thuế suất nhập khẩu ô-tô nguyên chiếc từ khu vực ASEAN về Việt Nam đã giảm từ mức 50% xuống còn 40% từ đầu năm 2016, khiến chi phí cho việc nhập khẩu xe ô-tô từ Thái-lan giảm hơn so với nhập từ các thị trường khác. Từ nay đến năm 2018, khi thuế tiếp tục giảm theo lộ trình, ô-tô Thái-lan đương nhiên sẽ chiếm nhiều lợi thế hơn nữa tại thị trường Việt Nam. Cụ thể, trong năm 2017, thuế suất nhập khẩu xe ô-tô từ khu vực ASEAN về Việt Nam sẽ giảm xuống còn 30% và sang đầu năm 2018 về mức 0%. Đón đầu xu hướng giảm thuế này, nhiều hãng lắp ráp ô-tô trong nước đã quyết định không tiếp tục đầu tư mới dây chuyền lắp ráp mà chuyển hẳn sang nhập khẩu từ Thái- lan về phân phối như hãng xe Toyota quyết định nhập khẩu nguyên chiếc mẫu xe ăn khách Fortuner, hãng xe Ford nhập khẩu xe Everest, còn hãng xe Honda nhập xe Civic,...
Đánh giá hiện tượng gia tăng nhập khẩu nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN, Vụ trưởng Thống kê thương mại dịch vụ (Tổng cục Thống kê) Lê Thị Minh Thủy cho rằng: Hiện tượng này hết sức đáng lo ngại. Đi sâu phân tích số liệu nhập khẩu của từng ngành, sản phẩm mới thấy hết thách thức cạnh tranh mà các DN trong nước đang phải đối mặt. Chẳng hạn mặt hàng rau quả, kim ngạch nhập khẩu 10 tháng năm 2016 tăng tới 65,6%, trong khi cùng kỳ năm trước chỉ tăng 2,8%. Đáng chú ý là thị trường Thái-lan, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đã tăng đột biến, tới 84,6%, gấp gần bốn lần mức tăng của cùng kỳ năm 2015 so năm 2014. Hay mặt hàng dược phẩm, kim ngạch nhập khẩu tăng 20,8%, trong khi cùng kỳ năm trước chỉ tăng 0,9%,... Trước xu hướng nhập khẩu nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN tăng đột biến trong năm 2016, nhất là từ hai thị trường lớn trong khu vực là Thái-lan và Ma-lai-xi-a, sản phẩm trong nước sẽ phải đối mặt sự cạnh tranh gay gắt hơn, thậm chí bị hàng ASEAN lấn át ngay tại sân nhà.
Không chỉ tăng mạnh về nhập khẩu hàng hóa, thị trường bán lẻ Việt Nam cũng đang có nguy cơ bị các DN trong ASEAN thôn tính dần. Việc tập đoàn lớn BJC của Thái-lan mua đứt chuỗi siêu thị Metro Cash & Carry lớn nhất nhì Việt Nam, Tập đoàn Central Group thâu tóm siêu thị Big C,… phần nào phản ánh tham vọng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Trang trại Bảo Châu Nguyễn Đại Thắng cho biết: Quá trình hội nhập kinh tế, việc chiếm lĩnh thị trường quyết định sự sống còn của DN. Trong đó, thị trường bán lẻ đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi khi đã có thị trường, hệ thống phân phối riêng biệt, nhà đầu tư hoàn toàn có thể tự quyết định số lượng hàng hóa, chủng loại sản phẩm đưa vào kênh phân phối với mức giá cạnh tranh. Khi các kênh phân phối trong nước rơi vào tay các DN nước ngoài thì sản phẩm của DN trong nước sẽ gặp khó khăn lớn trong tiêu thụ. Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam Đinh Thị Mỹ Loan thẳng thắn nhìn nhận: Các nhà bán lẻ nước ngoài có thế mạnh về nhiều mặt như: vốn, tài chính, thương hiệu, con người,… cho nên hơn hẳn DN nước ta trong phát triển thị trường cũng như kỹ năng quản lý. Vì vậy, nếu muốn cạnh tranh được với các DN nước ngoài tại thị trường trong nước thì DN Việt Nam buộc phải thay đổi về chất, như nâng cao tính chuyên nghiệp, áp dụng công nghệ cao trong quản lý, hợp tác, liên kết để xây dựng chiến lược phát triển dài hạn.
Nguồn: Asem/WTO/Bloomberg…
Indonesia công bố 3 ưu tiên kinh tế trong Năm Chủ tịch ASEAN 2023
Việt Nam đóng góp, ủng hộ sáng kiến nâng hiệu quả hoạt động của ASEAN
Kỳ vọng cao vào chương trình nghị sự ASEAN năm 2023
Truyền thông châu Âu nêu bật vai trò Việt Nam trong hợp tác EU-ASEAN
Hội nghị thượng đỉnh Doanh nhân nữ ASEAN 2022 tại Hà Nội
Thúc đẩy hợp tác ASEAN-EU lên tầm cao mới
AEM 54 tập trung vào thúc đẩy kinh tế với các đối tác của ASEAN
Phú Thọ tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư với các doanh nghiệp Mỹ
AMM-55: ASEAN Hành động-cùng ứng phó các thách thức chung
Áp biện pháp chống lẩn tránh thuế đối với đường mía từ 5 nước ASEAN
Vai trò then chốt của ASEAN trong việc thúc đẩy an ninh lương thực toàn cầu
ASEAN - Vương quốc Anh đối thoại quan chức cấp cao đầu tiên để tăng cường hợp tác
Việt Nam và Mexico xúc tiến hợp tác thương mại, kinh tế và đầu tư
ASEAN cam kết tăng cường bảo vệ người tiêu dùng
2 nhóm hàng xuất khẩu tỷ đô của ngành nông nghiệp Việt Nam
Xuất khẩu hàng hóa của ngành nông nghiệp có nhiều khởi sắc trong 2 tháng đầu năm. Đặc biệt có 2 nhóm hàng trong lĩnh vực này đạt kim ngạch ...2 tháng đầu năm, xuất khẩu hoa hồi của Việt Nam đạt 1.437 ...
Xuất khẩu rau quả sang thị trường ASEAN vẫn còn khiêm tốn
2 tháng đầu năm, xuất khẩu xơ sợi dệt thu về hơn 666 triệu ...